khach san bac ninh

Bac Ninh Tin tuc tong hop san pham lang nghe doanh nghiep Bac Ninh
Thứ sáu, 24/08/2012 - 09:16

Những nỗ lực để Bắc Ninh trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại

Xây dựng và phát triển các Khu công nghiệp là một trong các giải pháp quan trọng đẩy nhanh quá trình CNH - HĐH tỉnh Bắc Ninh. Xuất phát từ mục tiêu quan trọng này, với trọng trách được giao, suốt 14 năm qua (25-8-1998 - 25- 8-2012), Ban quản lý các KCN đã vận dụng sáng tạo, nỗ lực vươn lên vượt mọi khó khăn, thử thách làm tốt chức năng tham mưu về quy hoạch, kế hoạch phát triển các KCN, kịp thời đề xuất các chủ trương, biện pháp quản lý đầu tư trong và ngoài nước… từng bước xây dựng các KCN Bắc Ninh trở thành các KCN hiện đại, phát triển bền vững.

275 dự án FDI đầu tư vào các KCN phát huy hiệu quả tốt.
 
 
Với môi trường đầu tư thông thoáng, chính sách hỗ trợ đầu tư hấp dẫn, các KCN Bắc Ninh đã trở thành trọng điểm thu hút đầu tư trong và ngoài nước, góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong tỉnh, và đang là điểm đến của nhiều tập đoàn hàng đầu thế giới như: Canon; Samsung; Nokia; Sumitomo; Foxcon; Pesico… với nhiều sản phẩm được xuất khẩu, góp phần khẳng định vị thế của Việt Nam trong bản đồ địa kinh tế của khu vực và thế giới. 

Bắc Ninh được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch, xây dựng 15 KCN, tổng diện tích 7.681ha. Công tác quy hoạch các KCN Bắc Ninh đến năm 2015, định hướng đến 2020 bám sát mục tiêu gắn liền với xây dựng một hệ thống kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh, bao gồm hạ tầng kỹ thuật - xã hội bên trong và bên ngoài KCN như: Hệ thống giao thông, hệ thống thông tin liên lạc, bưu điện, mạng lưới cung cấp điện, nước, ngân hàng, bảo hiểm, hệ thống xử lý chất thải tập trung… Mô hình gắn kết các KCN với Khu đô thị và khu dịch vụ, bảo đảm cung cấp nguồn nhân lực và tiện ích công cộng, đồng thời đặc biệt chú trọng đến công tác bảo vệ môi trường.

Trải qua 14 năm xây dựng và phát triển (1998-2012), các KCN đã đạt được những thành tựu quan trọng, đóng góp tích cực vào sự nghiệp CNH - HĐH: Hệ thống các KCN hình thành trên cơ sở chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, quy hoạch ngành, địa phương, phân bố trên cơ sở bổ sung phát huy lợi thế địa kinh tế, tiềm năng của từng vùng, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất và phát triển công nghiệp của địa phương.

Với những điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng, các KCN Bắc Ninh đã huy động được lượng vốn đầu tư lớn của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, trở thành điểm đến hấp dẫn của nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài. Số dự án được cấp phép là 550, với tổng vốn đầu tư đăng ký là 4.357,23 triệu USD. Trong đó, dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là 275 dự án với vốn đầu tư  3.209,69 triệu USD. Trung bình 7,9 triệu USD/dự án, 3,7 triệu USD/ha đất công nghiệp cho thuê (cao hơn tỷ lệ trung bình của cả nước là gần 1,2 triệu USD/ha).

Các KCN đã tạo ra một hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, có giá trị lâu dài, góp phần hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng của tỉnh. Một trong những yêu cầu  then chốt của quá trình công nghiệp hoá là xây dựng và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội. Kết cấu hạ tầng KCN kết nối đồng bộ với kết cấu hạ tầng ngoài hàng rào KCN, vừa phục vụ nhà đầu tư thứ cấp trong việc triển khai nhanh dự án đầu tư, sản xuất kinh doanh, vừa góp phần cải thiện hệ thống kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng nông thôn của các địa phương, phục vụ tích cực cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

Ban quản lý các KCN Bắc Ninh đã cấp phép 14 dự án đầu tư xây dựng hạ tầng, tổng vốn đầu tư 865 triệu USD. Trong đó, 9 KCN đang triển khai xây dựng và đi vào hoạt động. Kết quả đáng ghi nhận là qua 14 năm xây dựng và phát triển các KCN, đã hình thành một đội ngũ doanh nghiệp trong nước có năng lực quản lý, có uy tín và kinh nghiệm trong lĩnh vực xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng KCN.

Các KCN đã minh chứng là một công cụ hữu hiệu thu hút các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ công nghiệp, đóng góp ngày càng lớn vào việc nâng cao tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp trong GDP của tỉnh. Tốc độ gia tăng  giá trị  sản xuất công nghiệp (SXCN) trong KCN Bắc Ninh đều vượt so với tốc độ gia tăng giá trị SXCN của cả nước.

Năm 2011, số doanh nghiệp đi vào hoạt động là 263, giá trị SXCN đạt 142.704 tỷ đồng (theo giá cố định 94 - chiếm 70% giá trị toàn tỉnh). Giá trị xuất khẩu 6.512 triệu USD, nhập khẩu 5.806 triệu USD, nộp ngân sách đạt 2.653 tỷ đồng. Các doanh nghiệp trong KCN cũng góp phần tạo nguồn hàng để cung cấp cho nhu cầu trong nước, giảm gánh nặng nhập khẩu hàng hoá từ bên ngoài, tác động rất tích cực tới việc phát triển các cơ sở nguyên liệu, nâng cao giá trị nông sản hàng hoá.

Ngoài ra, các KCN góp phần quan trọng trong việc giải quyết việc làm, đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao thu nhập đời sống và trình độ của người lao động. Tính đến tháng 7-2012, các KCN đã giải quyết việc làm cho 97.772 lao động trực tiếp, trong đó, lao động trong tỉnh chiếm hơn 41%. Đây là một đóng góp lớn về mặt xã hội của các KCN, góp phần đào tạo nguồn nhân lực trong tỉnh để hình thành một đội ngũ lao động của nền công nghiệp hiện đại. Mô hình liên kết đào tạo và sử dụng nhân lực giữa các KCN và nhà trường, giải quyết tình trạng thiếu lao động kỹ thuật hiện nay.

Thực tế cho thấy, thành công của các KCN mang dấu ấn đậm nét của việc triển khai, áp dụng có hiệu quả, hài hoà giữa mục tiêu thu hút đầu tư với giải quyết vấn đề môi trường, giữa thực hiện triệt để cải cách thủ tục hành chính theo mô hình “một cửa, tại chỗ” với công tác hỗ trợ hiệu quả, đầy trách nhiệm cho các doanh nghiệp KCN, nâng cao hình ảnh và sức cạnh tranh, là điểm đến tin cậy và hấp dẫn của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Tuy nhiên, là mô hình mang tính đặc thù, vừa triển khai, vừa điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế theo từng giai đoạn phát triển, các KCN vẫn còn bộc lộ những mặt hạn chế, cần phải nghiên cứu, khắc phục trong thời gian tới như: Chất lượng công tác quy hoạch các KCN và triển khai thực hiện quy hoạch được phê duyệt còn chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển, chưa có một kế hoạch thực hiện quy hoạch với mục tiêu và phân kỳ hợp lý, căn cứ trên khả năng thu hút đầu tư thực tế của từng khu. Các chủ đầu tư  phát triển kết cấu hạ tầng KCN vẫn ưu tiên tập trung thu hút đầu tư lấp đầy KCN, chưa thực sự chú trọng tới cơ cấu ngành nghề, công nghệ, yếu tố môi trường… do đó, cơ cấu đầu tư trong KCN chưa thực sự hợp lý, hàm lượng công nghệ cao trong KCN còn hạn chế, tính liên kết ngành của các KCN chưa chặt chẽ.

Công tác đền bù, GPMB, xây dựng kết cấu hạ tầng còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Những vướng mắc về giá đất và các quy định của pháp luật liên quan đến đền bù, GPMB đã ảnh hưởng trực tiếp tới tiến độ đề bù, làm giảm sức hấp dẫn đầu tư vào KCN. Công tác bảo vệ môi trường còn bất cập, ý thức của chủ đầu tư chưa cao, vẫn đặt lợi ích kinh tế lên trên trách nhiệm bảo vệ môi trường. Vấn đề lao động việc làm, đời sống công nhân trong KCN còn nhiều khó khăn, thu nhập thực tế chưa đáp ứng được nhu cầu cơ bản của cuộc sống…

Từ đánh giá những mặt tích cực và những tồn tại, những hạn chế chủ yếu và nguyên nhân, Ban quản lý các KCN Bắc Ninh đã nỗ lực phấn đấu thúc đẩy các KCN hiện có phát triển theo chiều sâu và nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động, chuyển dịch cơ cấu bên trong thông qua đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, phát triển các ngành công nghệ cao như: Thông tin, cơ khí điện tử, đẩy mạnh dịch chuyển từ công nghiệp gia công sang công nghiệp chế biến các nguyên liệu trong tỉnh sẵn có và công nghiệp chế tạo nhằm nâng cao giá trị hàm lượng quốc gia của sản phẩm, củng cố vị trí các sản phẩm trên thị trường quốc tế và khu vực.

Thời gian tới, việc xây dựng và phát triển các KCN sẽ tiếp tục nâng cao chất lượng quản lý quy hoạch, nâng cao chất lượng xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng, xây dựng nhà ở cho người lao động, cải thiện chất lượng thu hút đầu tư, đặc biệt là các ngành nghề được xác định là mũi nhọn phát triển và có lợi thế của tỉnh, kiểm soát chặt chẽ vấn đề môi trường, chăm lo đời sống vật chất cho người lao động, chú trọng đào tạo nghề cho thanh niên vùng nông thôn… phấn đấu đến năm 2015 Bắc Ninh cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại.

Ngô Sỹ Bích
Top