Tôi đến thôn Ngô Nội đúng vào ngày giỗ tổ nghề tuồng (12 tháng 8 âm lịch). Đã thành thông lệ, cứ vào ngày này, các thành viên trong đội tuồng làng lại tổ chức lễ giỗ tổ để tưởng nhớ cội nguồn bộ môn nghệ thuật đã gắn bó với họ từ bao đời nay.
Năm nay, gia đình ông Nguyễn Đăng Nhật, một kép tuồng cao niên trong đội, nhận vinh dự rước khán thờ tổ về nhà thờ phụng. Đây là sự kiện lớn được dày công chuẩn bị trước cả tháng trời. Sau phần nghi lễ trang nghiêm là phần biểu diễn các trích đoạn tuồng cổ do chính các nghệ sĩ nghiệp dư trong đội. Tiếng kèn, tiếng trống, vang lên rộn ràng, hòa cùng những câu hát vang, rền đặc trưng gợi nhắc về không khí sôi nổi của các chiếu tuồng xưa.
Thời kỳ hoàng kim nhất của đội là vào những năm 1960 - 1980. Khi đó, đội được mời đi diễn phục vụ ở khắp nơi cả trong và ngoài tỉnh. “Anh em trong đội chỉ toàn đạp xe đạp, còn đạo cụ, trang phục thì chất lên xe cải tiến đẩy tay, thù lao chẳng có là bao. Vậy mà chúng tôi vẫn hăng hái đi diễn ròng rã cả tháng trời” - ông Nguyễn Công Hoan nhớ lại.
Những con người ngày đó nay dù tuổi đã cao nhưng vẫn tập luyện, sinh hoạt đều đặn, mỗi dịp hội hè, đình đám vẫn vẽ mặt, giáp áo chỉnh tề biểu diễn phục vụ. Số lượng thành viên trong đội nay chỉ còn gần 30 người nhưng ai cũng đam mê, tâm huyết với nghệ thuật tuồng, quyết tâm gìn giữ nét đẹp văn hóa mà tổ tiên, ông cha truyền lại. Cũng bởi lẽ đó mà đội tuồng Ngô Nội là một trong hai đội tuồng duy nhất ở huyện Yên Phong vẫn còn tồn tại và duy trì hoạt động cho đến ngày nay.
Cùng với sự phát triển của nhiều loại hình giải trí mới ra đời, tuồng không còn là sự lựa chọn hàng đầu của người dân địa phương nữa. Thêm vào đó là nỗi lo mưu sinh, kiếm sống khiến cho nhiều người dù rất đam mê với nghệ thuật tuồng nhưng cũng đành từ bỏ để lo cho kinh tế gia đình. Số lượng các đêm diễn ngày một thưa, đội tuồng làng Ngô Nội cũng chỉ còn biết hoạt động cầm chừng. Sự quan tâm của chính quyền cũng theo đó mà ít dần.
Đến nay, toàn bộ chi phí để duy trì hoạt động của đội đều là do các thành viên tự đóng góp. Ngân sách eo hẹp khiến đội không có điều kiện để mua sắm trang thiết bị, dàn dựng các vở diễn mới. Nhiều bộ trang phục đã có từ cách đây năm sáu chục năm vẫn được đem ra biểu diễn, nhiều đạo cụ đã cũ hỏng vẫn phải sửa chữa, vá víu để dùng lại…
Tuy nhiên, nỗi trăn trở lớn nhất của những người tâm huyết với tuồng Ngô Nội không phải là vấn đề kinh phí mà chính là ở thế hệ kế cận. Tuồng là loại hình diễn xướng nên việc tập luyện cũng kỳ công hơn các loại hình nghệ thuật khác. Để tập thành thục một vai tuồng, không chỉ cần có giọng hát mà còn phải biết diễn sao cho “nhập”. Những ai không đam mê thật sự thì sẽ không đủ kiên trì để theo đuổi loại hình nghệ thuật này. Vì thế, tìm được một người trẻ theo học tuồng bây giờ đã khó, giữ chân được họ ở lại lâu dài với tuồng lại càng khó hơn.
Nguy cơ mai một tuồng ở Ngô Nội ngày càng lộ rõ. Tuy số lượng thành viên của đội hiện không ít (gần 30 người) nhưng tuổi đời trung bình lên tới hơn 50 tuổi. Trong khi đó, việc vận động kết nạp những thành viên mới, đặc biệt là lớp trẻ gặp rất nhiều khó khăn. Ông Nguyễn Công Hoan cho biết: “Cách đây 6- 7 năm, chúng tôi có đào tạo một lớp khoảng hơn chục em tuổi từ 14 đến 17. Nhiều em trong số đó rất có năng khiếu nhưng chỉ được một vài năm, khi các em đi học, đi làm xa hoặc lập gia đình đều bỏ”. Bà Nguyễn Thị Nội - người trong gia đình đã có 3 thế hệ tham gia đội tuồng nói: “Bọn trẻ bây giờ không thích tuồng. Con tôi không đứa nào theo tuồng cả. Được mấy đứa cháu có năng khiếu thì chỉ thích nhạc trẻ, không chịu học hát tuồng”. Đây cũng là tình trạng chung của nhiều gia đình khác ở Ngô Nội.
Đối với những người như ông Hoan, ông Nhật, bà Nội, những buổi giỗ tổ là dịp để được sống trong những thanh âm, những tích tuồng đã gắn bó với họ gần như cả cuộc đời. Nhờ có họ, tuồng Ngô Nội vẫn thể hiện sức sống bền bỉ qua thời gian. Thế nhưng với những khó khăn chồng chất như bây giờ thì chẳng biết những chiếu tuồng làng quê như Ngô Nội còn tồn tại được trong bao lâu nữa?