Các triều đại về sau đều biết ơn công lao vĩ đại của vương triều Lý, như lời văn bia Cổ Pháp điện tạo bi do trạng nguyên Phùng Khắc Khoan soạn đầu thời Lê Trung Hưng: “Thế nước thật vững vàng, chủ trương giữ nước chu đáo, vun đắp tình đoàn kết dân tộc. Dẫu thời vận đã hết công đức ấy phải duy trì để người nước
Hiện nay tại Đình Bảng quê hương nhà Lý các di tích lịch sử thời Lý được tôn tạo khang trang, đặc biệt là khu di tích đền Đô thờ các vị vua nhà Lý và là nơi du lịch tâm linh quan trọng của cả nước.
Ngày rằm tháng Ba năm 2000 kỉ niệm 990 năm vua Lý Thái Tổ làm lễ đăng quang, nhà thơ Nguyễn Văn Chương đã đến đền Đô dự lễ hội và nảy ra ý tưởng viết bản Chúc văn tưởng niệm Lý triều Bát Đế. Đây thực sự là ý tưởng tâm thành và khó khăn. Làm thơ thì dễ hơn nhiều. Nhưng chỉ có viết chúc văn mới tỏ hết sự tôn kính trang trọng và nói hết được sự vĩ đại của cả một vương triều văn nghiệp võ công rực rỡ. Chúc văn là thể loại biền ngẫu, lối văn cổ nay ít thịnh hành và ít người biết làm.
Sau lễ hội, nhà thơ Nguyễn Văn Chương bắt tay vào thu thập tài liệu sử sách về triều Lý đọc nghiền ngẫm và ghi chép. Ông tự nhủ phải thông làu sử sách trước để ghi nhớ các sự kiện quan trọng, các nhân vật quan trọng, các địa danh quan trọng trải dài suốt hơn 200 năm vương triều tồn tại. Ông cũng không quên tìm hiểu và ghi chép những nhận định về vai trò lịch sử của vương triều Lý sau này, đặc biệt là đánh giá của các lãnh tụ cách mạng đương thời. Càng thấm thía sự vĩ đại vương triều Lý thì cảm xúc sáng tạo càng đến mạnh mẽ hơn, dào dạt hơn.
Cảm xúc sáng tạo đến từ sự tự hào với cái tên nước Đại Việt. Nhà thơ luôn thấy âm vang trong cảm xúc hai tiếng Đại Việt thôi thúc câu chữ xuất hiện. Ông quyết định lấy vần “iết” làm vần chủ cho tác phẩm chúc văn của mình. Nhưng khi bắt tay vào viết thì vần iết lại là tử vận, nghĩa là không có vần mát để việc chọn từ ngữ hiệp vần dễ dàng hơn, phong phú hơn. Nhưng khi cảm xúc dào dạt, mãnh liệt thì chữ trước gọi chữ sau, câu trước gọi câu sau tự đến. Bản chúc văn dần dần dân hình thành.
Ông bắt tay khởi viết từ ngày 16 tháng Giêng năm Tân Tị (2001) và phấn đấu viết xong trước ngày rằm tháng ba năm đó. Nhưng ông đã hoàn thành tác phẩm chỉ trong vòng một tháng, sớm hơn dự định một nửa thời gian. Tác phẩm chúc văn gồm 55 cặp câu tiểu đối thể biền ngẫu, gồm các phần:
Khái quát sự tôn kính của hậu thế với nhà Lý và đó chính là cội nguồn cảm xúc viết chúc văn: “Vẻ vang thay Lý triều/Văn hiến thay Đại Việt/Ngày hội đền Đô đồng bào cả nước hành hương/Tiết xuân Đình Bảng hậu duệ các vùng cáo yết”.
Nhà Lý thành lập và sự kiện dời đô: “Rồng vàng hiển hiện đón mừng thuyền ngự năm cửa Thăng Long như gấm như hoa/Hạc trắng rập rờn khánh chúc đế đô bốn phương thượng lộ như thêu như dệt”.
Những thành tựu văn trị rực rỡ: đặt hội thề, soạn hội điển, ban hình thư, chiếu khuyến nông, đắp đê, mở cảng, dựng tháp, làm chùa, xây văn miếu, lập võ đường…
Võ công hiển hách: “Bấy giờ nhà Triệu Tống/Bắt một trăm nghìn lính gươm đao tràn xuống phương Nam/Lùa hai mươi vạn phu thuỷ bộ kéo vào cõi Việt”. Lúc này Đại Việt: “Cả nước lên đường vì độc lập, hậu phương có Ỷ Lan, Lý Đạo Thành/Toàn dân ra trận giữ chủ quyền, tiền tuyến có Tôn Đản, Lý Thường Kiệt”. Phòng tuyến sông Cầu đánh tan quân Tống, sau đó là đấu tranh ngoại giao đòi đất bị chúng chiếm đóng thắng lợi: “Lê Văn Thịnh lên đất Quảng Uyên kiên trì đấu tranh sông núi vẹn toàn/Trạng khai khoa đến trại Vĩnh Bình sáng suốt ngoại giao huyện châu đòi hết”.
Khúc khải hoàn: “Tranh điệp Đông Hồ câu thơ Thiền Uyển càng rực rỡ ngân nga/Bài ca Quan Họ tiếng hát đồng dao lại véo von thắm thiết”.
Phần cuối là nói về lòng biết ơn của hậu thế và quê hương Đình Bảng: “Thương giọt máu đào hơn bảy thế kỉ có con cháu sống ở Đại Hàn/Giữ pho tộc phả gần tám trăm năm vẫn tâm hồn hướng về Đại Việt/Chiêng cảnh dương rộn rã dư ba/Tróng vân tản rền vang nồng nhiệt/Hội mùa xuân thịnh vượng thái bình/Mừng tiết lệ nguyện cầu tha thiết”.
Sau khi tác phẩm hoàn thành, nhà thơ nguyễn Văn Chương tâm sự ông viết như có thần linh giúp sức và coi tác phẩm như một nén tâm nhang kính dâng bái tụng vương triều Lý. Tác phẩm hiện nay được Nhà giáo Nhân dân, Anh hùng Lao động Nguyễn Đức Thìn trân trọng đưa vào bộ sưu tập tác phẩm viết về nhà Lý và đền Đô trưng bày tại khu di tích quan trọng này.