Một hôm, nhân kì lĩnh lương, mấy ông giáo nghỉ hưu rủ nhau ra quán cà phê đầu phố. Một ông nêu ra nhận xét: “Anh em mình bây giờ chủ yếu sống bằng lương hưu, chẳng thấy ông nào giàu cả...”. Ừ nhỉ, cũng đúng thật! Nói về kinh tế thì chẳng ông nào có của ăn của để, chẳng có biệt thự, xe hơi... Nhưng được cái ai cũng thanh thản.
Các nhà giáo đã nghỉ hưu vui mừng gặp lại Giáo sư Nguyễn Khắc Phi (giữa) thầy giáo cũ của họ.
Chúng tôi bước vào nghề dạy học khi đất nước còn chiến tranh, khi xã hội còn bao cấp thời thế như vậy, lại làm nghề dạy học nữa thì làm sao có tích lũy để một khoản tiền tiết kiệm dành cho tuổi già được. Nhưng nếu suy về sự giàu nghèo thì thời chúng tôi, nhà giáo cũng có nhiều thứ giàu lắm.
Cái giàu thứ nhất mà chúng tôi rất tự hào, đó là sự tâm huyết với nghề nghiệp, với học sinh. Anh em chúng tôi rất vinh dự khi được đứng trên bục giảng, đưa ánh sáng văn hóa đến với học trò, giúp các em trở thành những con người mới có đạo đức, có tri thức, để cống hiến cho đất nước, quê hương.
Thời ấy thầy nghèo, trò nghèo nhưng có lẽ cái nghèo đó đã trở thành động lực để dạy tốt hơn, để học giỏi hơn mong thoát nghèo, mong một ngày mai tốt đẹp. Thầy trò chúng tôi thời ấy cơm không đủ no, áo không đủ ấm nhưng khi các em vào lớp, khi chúng tôi đứng trên bục giảng, thầy và trò đều say sưa, hầu như quên đi hết tất cả nỗi lo cơm áo. Đất nước còn nghèo, nhà giáo chúng tôi đâu dám đòi hỏi riêng cho mình. Gạo hẩm, sắn khô, bột mì... những bữa ăn thiếu cơm, nhạt muối, làm thêm đủ nghề để mưu sinh nhưng không bao giờ làm giảm đi trong các nhà giáo nhiệt huyết với nghề nghiệp với học trò.
Thời ấy chúng tôi đi dạy học theo sự phân công của tổ chức, hầu như không ai chạy chọt để được về thành phố, đô thị, hay được ở gần nhà. Bất kì ở đâu, mọi người đều say sưa cống hiến. Tôi nhớ có lần lên thăm người bạn dạy học ở vùng cao huyện Sơn Động tỉnh Hà Bắc cũ. Bạn tôi dạy khu lẻ, một mình ở giữa rừng. Ngày ngày, anh dạy một lớp ghép, có mấy em học lớp 1, có dăm em học lớp 2, lại mấy em học lớp 3. Một mình bạn tôi xoay ra với ba chương trình học khác nhau. Chiều về, khi các em tan lớp, bạn tôi lại một mình làm bạn với suối với rừng, với tiếng mõ của đàn trâu. Khi tôi đến thăm bạn mừng lắm. Tôi chia sẻ nỗi buồn với bạn, bạn ấy cười bảo “Cũng quen rồi ông ạ. Cứ lên lớp là mình quên đi hết”.
Còn cái giàu thứ hai đó là giàu tình cảm, giàu tình người. Thời ấy, tình cảm thầy trò sao mà sâu sắc, trong sáng vô tư đến thế. Một nhà giáo già trong hội hưu của chúng tôi kể lại: Thời chiến tranh phá hoại của máy bay Mỹ, ông dạy học ở vùng khu Bốn cũ. Một lần đang giữa buổi học, máy bay Mỹ ném bom, cả thầy và trò chạy ra hầm trú ẩn. Bom Mỹ ném xuống gần trường, hầm trú ẩn thì nông, một cậu học sinh đã nằm đè lên người ông để che cho ông không bị sát thương khi những mảnh bom rơi xuống và học sinh ấy bị trúng mảnh bom vào lưng.
Sau này người học sinh ấy tòng quân đánh Mỹ, thỉnh thoảng vẫn gửi thư thăm ông. Anh đã hi sinh trên chiến trường để lại trong ông mãi mãi sự thương nhớ và biết ơn. Còn chuyện trò nghèo, trò vất vả, thầy chia sẻ với các em cuốn sách giáo khoa, tập vở, manh áo hay những buổi phụ đạo không tiền bồi dưỡng có lẽ trong đời làm thầy giáo của chúng tôi ai mà chẳng đã làm.
Còn cái giàu thứ ba mà rất nhiều nhà giáo trong chúng tôi có được là tạo được nền nếp giáo dục con cái trong gia đình. Các cụ xưa từng dạy: Giấy rách thì giữ lấy lề. Cái lề trong mỗi nhà mà các nhà giáo cố giữ là nuôi dạy con thành người có học có văn hóa, biết sống vì mọi người và phải đi lên bằng năng lực học hành.
Một nhà giáo trong chúng tôi tâm sự: Ngay từ khi các con ông bắt đầu đến trường cho đến khi các con ông trưởng thành, ông thường dặn các con: “Bố mẹ làm nghề dạy học. Bố mẹ không có hai cái ô lớn là chức quyền và tiền bạc để che đỡ cho suốt cuộc đời các con. Hãy bằng năng lực của mình mà phấn đấu, trưởng thành. Đến lúc ấy các con mới thấy tự hào về cuộc sống mà các con đã tự tạo lập cho mình”.
Có thể nói hầu hết các nhà giáo có con cái đã trưởng thành. Các cháu đều lập thân, lập nghiệp bằng con đường học hành. Nhiều cháu thực sự có tài năng và những tài năng ấy được khẳng định bằng các cuộc thi học sinh giỏi quốc gia, quốc tế, bằng danh hiệu thủ khoa đầu vào, đầu ra các trường Đại học.
Đến chơi các gia đình nhà giáo đã nghỉ hưu trên đất Bắc Ninh, tôi được chứng kiến cuộc sống ổn định, đầy đủ của họ. Nhiều gia đình nhờ sự học hành, lập nghiệp của con cái mà cuộc sống đàng hoàng, nhà cửa khang trang. Niềm vui lớn nhất, gia tài giàu có nhất của các bậc làm cha, làm mẹ nói chung, các nhà giáo nói riêng là con cái. Con cái ngoan ngoãn, hiếu thảo, thành đạt còn niềm vui nào lớn hơn, có gia tài nào giàu có hơn! Rất nhiều gia đình nhà giáo chúng tôi đã có được sự giàu có đó.
Có thể thấy một thực tế là thời kinh tế thị trường, cuộc sống nhà giáo cũng có nhiều đổi thay. Đồng lương và phụ cấp của họ đã có cải thiện hơn. Nhưng sự tâm huyết với nghề, với học trò, tình nghĩa thầy trò có nhiều điều cũng phải suy nghĩ, băn khoăn. Mỗi thời mỗi khác chúng tôi không dám so sánh nhưng làm gì cũng vậy, “Tiên trách kỉ, hậu trách nhân” người xưa đã dạy. Nhiều khi chúng tôi tự hỏi, khi kinh tế thị trường thâm nhập sâu vào nhà trường, lối sống thực dụng len lỏi vào từng gia đình nhà giáo, khi những nhu cầu của cuộc sống đòi hỏi mỗi nhà giáo phải lo toan nhiều hơn vất vả dạy thêm nhiều hơn, nhà trường phải thu thêm nhiều khoản hơn, đổ gánh nặng lên phụ huynh thì môi trường giáo dục, quan hệ thầy trò càng bị phai nhạt đi chăng? Chúng tôi không mong ước “bao giờ cho đến ngày xưa” nhưng cũng rất mong muốn xã hội và nhân dân quan tâm hơn đến đời sống vật chất và tinh thần các nhà giáo để các nhà giáo lại giàu có hơn về sự tâm huyết với người, với nghề, lại giàu có hơn về tình nghĩa thầy trò để nghề nhà giáo mãi mãi là một nghề thực sự được xã hội tôn vinh.