Nhà văn (NV) Đỗ
Chu vào làng văn thuận hơn nhiều so với những tác giả khác cùng trang lứa. Hồi học cấp III trường Hàn Thuyên (Bắc Ninh) đầu những năm 60 của thế kỷ trước, NV Đỗ Chu đã có bài Ao làng in trên Tạp chí văn nghệ Quân đội-không những là sự kiện và niềm mơ ước của tác giả trẻ mà cái thị xã nhỏ bé yên tĩnh này ai cũng nhắc đến anh với đầy sự thán phục. Tôi vốn là người ham đọc sách nên cũng hăm hở tìm đọc truyện của anh. Những truyện ngắn Hương cỏ mật, Thung lũng cò, Chiến sỹ quân bưu… thuở ấy của Đỗ
Chu chiếm lĩnh tôi bởi chất văn ngọt ngào, sâu lắng. Những nhân vật đại úy Bài, anh Khang, cô giáo Nhâm, anh Hiền, Lầm "làng tôi"… sao đẹp và ân nghĩa đến vậy! Cứ ngỡ họ sinh ra là để cho đời sống này tốt hơn với lòng nhân ái vị tha!
Vào năm 1966, Bộ Tư lệnh Phòng không Không quân tổ chức trại viết các gương điển hình trong chiến đấu chống Mỹ. NV Đỗ Chu được giao phụ trách trại, viết về chiến sỹ Phan Đăng Cát rồi anh viết truyện ngắn Phù sa, làm cuốn sách cùng tên. Trước đó anh có 3 truyện đã in chung cùng hai tác giả khác trong tập Hương cỏ mật.
Nhìn các trang bản thảo ngoặc lên, ngoặc xuống của anh như vẽ bùa mới thấy hết sự lao động cực nhọc của nghề viết. Không biết do "ma lực" nào "ốp" mà Đỗ
Chu viết khỏe vậy. Một anh lính trẻ gầy nhàng nhàng đôi mắt sáng, bàn tay lúc nào cũng ướt đẫm mồ hôi mà sức viết lại dồi dào. Nhiều năm gần anh, hiểu anh tôi cũng học hỏi được nhiều ở nghiệp văn qua các cuộc tiếp xúc trò chuyện. NV Đỗ
Chu viết văn là hướng cho cả cuốn sách sắp in, hướng cho cả một giai đoạn anh quan tâm nên anh viết rất kỹ; khi tập hợp thành sách ít khi phải sửa chữa, thêm thắt. Ý thức này xuất hiện trong anh rất sớm. NV Đỗ
Chu nói: "Làm báo là phải cập nhật, viết văn thì phải dài dài…, phần lớn người viết văn bây giờ phải viết báo, cho nên cần nhớ là khi ra sách phải có văn chương…".
Anh là một nhà văn sớm thành đạt mà cũng không ít trăn trở, vật vã, day dứt băn khoăn. NV Đỗ
Chu không chịu bằng lòng với những gì đã có của mình cho dù những gì đã có của anh vẫn là mơ ước của nhiều người khác. Tôi nhớ hồi anh về quê sống và viết, chủ yếu là viết bút ký, tùy bút… Anh muốn có một cái gì khác những cái đã viết. Mà nào có dễ? Và anh vẫn nghĩ, nghĩ lung là đằng khác.
Đến thăm lúc nào cũng thấy anh hút thuốc lào vã, nước điếu vẩy tung tóe trên nền gạch ẩm. Bản thảo thì gạch xóa chằng chịt. Và bây giờ NV Đỗ
Chu "nẩy nòi" vẽ nữa chứ! Phòng anh thành xưởng họa. Nào bảng mầu, giá vẽ, toan, bút lông, bột màu, màu dầu… lem nhem khắp phòng. Xong đợt vẽ anh lại múc nước giếng rửa nhà, có khi mất hàng buổi. Sự thực là NV Đỗ
Chu vừa ném màu lên toan mà trong đầu vẫn không nguôi với những vấn đề đang ùa vào từ đời sống hiện tại.
Anh thường nói với tôi một cách bình tĩnh: "Nhà văn cũng có lúc bế tắc, không viết nổi một dòng". Không viết được thì đi. Anh đã lội vào những cánh đồng và những cánh rừng, về làng thăm đình, thăm chùa, đọc văn bia, câu đối, trò chuyện với các cụ già và trẻ thơ. Lên rừng xuống biển, vào
Nam ra Bắc chán thì ra nước ngoài. Anh bảo tôi "Cứ đi cái đã. Sống cái đã".
Thời gian này tôi thấy anh lặng lẽ đọc một cách hệ thống về nhiều vấn đề, không chỉ có văn học. Một hôm anh khuân chồng sách của nhà văn Tô Hoài về nhà, sách mang dấu thư viện Hà Nội. Tôi hỏi: "Anh định đọc hết ông ấy à?". Anh trả lời "Phải mất hàng năm, không thể không đọc một nhà văn như ông này. Đấy là nhà chép sử biên niên nước nhà, kể từ tiền khởi nghĩa. Những trang viết miền núi của Tô Hoài tất nhiên là hay, nhưng thực ra phần chính yếu của ông là viết về Hà Nội trước và sau Cách mạng Tháng Tám. Anh im lặng lúc lâu rồi lại nói: "Nhiều anh thích ầm ĩ quá, trong khi sự tự vượt mình chỉ có thể làm được trong im lặng sống và sáng tạo".
Hóa ra những vật vã ấy cũng không uổng phí. Với thời gian, văn Đỗ
Chu đời hơn, giản dị hơn, những trải nghiệm đời sống cứ lan tỏa trong hầu hết các trang viết: Buồn thay cho một kiếp người, muốn trong sạch nhưng lại quá yếu đuối. Dạo ấy ông đã nằm ở đây và ông đã nghĩ ngợi những gì, ôm ấp những gì? Khi ông nhìn những con đường nhỏ vắt qua núi. Nhìn dòng sông đang đứng im đằng xa kia, một dòng sông già cỗi như miền đất này, nhìn xuống bãi cát trải ra phẳng lặng, nhìn vào bãi thông giáp làng giờ đây đang bị mưa che khuất, nhìn vào tất cả khung cảnh này, ông ngẫm nghĩ như thế nào, đắng cay như thế nào mà đủ đau buồn đến mức có thể chết như không vậy? (Mưa tạnh).
Vẫn là tiếp tục những suy ngẫm từ một tâm hồn đôn hậu. Bằng lối viết không có chuyện, cứ nhẩn nha như thế mà lặn sâu vào kiếp người, phận người: Chẳng qua đời mỗi chúng ta cũng giống như con chim gì đang nhảy nhót chấp chới trên ngọn sóng. Chỉ có ai lênh đênh ngoài khơi thì mới gặp loài chim ấy. Chẳng hiểu chúng đậu vào đâu mà sống nổi và nhờ đâu chúng vẫn cất tiếng hót giữa trùng trùng sóng gió. Kiếp người tưởng vậy mà nào có khác nhau là bao. Tôi vẫn thấy có tiếng hát của em, tiếng gọi của chị trong mỗi ngày sống của mình. (Một loài chim trên sóng).
Sinh thời nhà văn Nguyễn Minh Châu từng nói: "Đỗ
Chu giống như cây quế trong rừng, ai dám bảo cây quế không quý". Nhưng có lẽ điều đó chỉ là đặc trưng của văn Đỗ
Chu thời trẻ. Những năm ấy, Đỗ
Chu vẫn chưa có đủ cái sâu sắc, đau đáu trải nghiệm.
Tôi là người may mắn gần gũi anh nhiều năm qua, nếu nói anh là người lười thì có lẽ vừa đúng lại vừa không đúng. NV Đỗ
Chu là người viết chậm và kỹ. Anh bảo: "Viết nhiều là quý nhưng phải hay. Viết nhiều mà không hay thì thà viết ít, thậm chí đừng viết nữa. Dấu hiệu của tài năng là phải tự biết mình đến lúc nào không nên viết nữa...”. Bây giờ sau hai tập sách Mảnh vườn xưa hoang vắng và Một loài chim trên sóng đã in trong mười năm trở lại đây, chúng ta thấy anh là người đến với nghề văn sớm nhưng không ít vất vả, không ít vật lộn, học hỏi để có thể chuẩn bị đủ bản lĩnh đi tới…
Một mạch vỉa hành trình sáng tạo của NV Đỗ
Chu được khai mở trong thể loại tùy bút. Với anh, tôi đã nghiệm ra rằng: có lẽ truyện ngắn không thể hàm chứa những điều anh định viết; muốn giãi bày phải tìm đến thể loại này để bày tỏ nỗi niềm một cách trực diện hơn. Trước đó văn học Việt
Nam đã có một đấng bậc Nguyễn Tuân dày dặn kiến văn mà hết mực tài hoa nhưng khi ta đọc Đỗ
Chu thấy tùy bút của anh gần gũi kiếp nhân sinh với những triết lý của trải nghiệm đời sống: "Một nhân gian rất thật mà cũng rất ảo, thực thực mơ mơ. Một thế giới trong đó hết thảy đang phơi bày, đó là những thách thức, những nguồn cảm hứng lớn đặt ra trước các nhà văn, trước tất cả những ai mang sứ mệnh sáng tạo" (Tản mạn trước đèn) cửa lòng biết ơn của sự nhắc nhủ…
Gần đây tôi đến thăm NV Đỗ
Chu ở khu chung cư Đội Nhân (Hà Nội) có nghe anh tâm sự: "Kim này, nhờ giời anh em mình có dăm ba chữ để sống với đời. Chịu khó viết lấy ít trang cho hẳn hoi, mà cũng chớ có quá ảo tưởng về mình, không khéo mà thành vớ vẩn cả, thì khổ". Một nhà văn đã vào tuổi bảy mươi có thành đạt trong văn chương mà còn thấy như vậy thì kể cũng là đáng trọng. Ngẫm ra, khả năng tự biết mình, dám vượt mình, là một phẩm chất không thể thiếu với những ai muốn đi xa…