Thứ sáu, 25/01/2013 - 09:53
Hiền tài là nguyên khí quốc gia
Theo Thân Nhân Trung “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mẽ, nguyên khí suy thì thế nước yếu kém (Hiền tài quốc gia chi nguyên khí, nguyên khí thịnh tắc quốc thế cường dĩ long, nguyên khí suy tắc quốc thế nhược dĩ ô).
Cách đây hơn 600 năm, trên tấm bia đá thứ nhất ghi về khoa thi tiến sĩ năm Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba (1442), đời Lê Thái Tông dựng ngày 15-8 năm Hồng Đức thứ 15 (1484) tại Văn Miếu, Thăng Long, Đông Đô, đời vua Lê Thánh Tông, tiến sĩ Thân Nhân Trung, người làng Yên Ninh (tục gọi làng Nếnh), huyện Yên Dũng, trấn Kinh Bắc, nay là xã Hoàng Ninh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang ghi được coi là tư tưởng tiến bộ và có ý nghĩa to lớn, sâu sắc so sánh không chỉ đối với chế độ phong kiến Việt Nam lúc bấy giờ mà nó còn có ý nghĩa đối với mọi quốc gia, mọi thời đại.
Thân Nhân Trung là một tấm gương hiếu học, ông thi Hội đỗ hội nguyên và thi Đình đỗ đệ tam giáp, đồng tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Sửu, niên hiệu Quang Thuận thứ mười (1469), khi đã ngoài 50 tuổi, bước vào thời kỳ lên lão. Ông là người khai khoa cho làng Yên Ninh. Từ năm 1469 đến 1619 qua các kỳ thi Minh Kinh bác học thời phong kiến, làng Yên Ninh có 10 người đỗ đại khoa trong tổng số 21 người của huyện Việt Yên, 618 vị thuộc trấn Kinh Bắc. Riêng gia đình Thân Nhân Trung có 4 cha con, ông cháu đỗ đạt là: Thân Nhân Vũ con thứ của ông đỗ khoa Tân Sửu Hồng Đức 12 (1481); Thân Cảnh Vân, con Thân Nhân Tín, cháu đích tôn Thân Nhân Trung, 25 tuổi đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đề tam danh (Thám hoa) khoa thi Đinh Mùi, Hồng Đức (1487); Thân Nhân Tín, con đầu Thân Nhân Trung, 52 tuổi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất Hồng Đức 21 (1490). Như vậy Thân Nhân Tín đỗ sau con trai mình là Thân Cảnh Vân 1 khoa (3 năm).
Lê Thánh Tông là đời thịnh trị 38 năm (1460-1497) đưa nước ta trở thành một nước hùng cường vào bậc nhất trong khu vực Đông Nam Á thời bấy giờ, cũng như trong suốt cả thời kỳ phong kiến Việt Nam. Dưới Triều Lê, Thân Nhân Trung được giao nhiều trọng trách: Hàn Lâm Viện thi độc, Hàn Lâm Viện thừa chỉ, kiêm đông các đại học sĩ, kiêm chức tế tửu Quốc Tử Giám... Sau được vua thăng đến chức Thượng thư Bộ Lai. Bộ Lai là bộ quan trọng nhất trong số lục bộ (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công) dưới thời phong kiến Việt Nam, có nhiệm vụ tổ chức bộ máy quản lý đất nước, bổ nhiệm, thuyên chuyển thăng giám quan lại trên phạm vi toàn quốc.
Thân Nhân Trung sống và làm việc hầu như suốt cả thời gian Lê Thánh Tông trị vì (1460-1497), là thời kỳ thịnh trị nhất của vương Triều Lê. Ông đã từng được vời vào cung dạy học cho các hoàng tử, làm nhiệm vụ độc quyền (chấm thi) cho một số khoa thi tiến sĩ... và ông đã có nhiều cống hiến đóng góp về nhiều mặt cho chế độ chính trị lúc bấy giờ. Thân Nhân Trung có nhiều tư tưởng tiến bộ về chính trị văn hóa-giáo dục, nhất là đào tạo, sử dụng nhân tài. Tư tưởng đó được ông trình bày tập trung khá rõ ràng trong hai bài ký đề tên tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba (1442) và khoa Đinh Mùi, niên hiệu Hồng Đức thứ 18 (1487).
Tấm bia đề tên tiến sĩ khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ ba (1442) có đoạn: “Đức Thái Tổ Cao Hoàng Đế (Lê Lợi) là vị thánh minh, trí dũng trời ban, dựng xây nghiệp lớn, diệt trừ bạo tàn, cứu sinh dân khỏi nơi cực khổ. Kịp khi võ công ổn định, ban bố thi hành văn đức, lo lắng, mong muốn thu nạp người tài, đổi mới nền chính trị. Ngài ban chiếu khắp thiên hạ, cho xây dựng trường học, đào tạo nhân tài (...) Kính nghĩ: việc dựng đá đề tên được làm, thì ý tốt, cầu hiền tài mưu thịnh trị của các Đức thánh tổ thần tông mới được lưu truyền mãi mãi. Đó là phép lớn để khuyến khích người đời, là vinh hạnh lớn cho nền văn hoá.
Thần Trung nông cạn, vụng về nhưng đâu dám chối từ, xin kính cẩn chắp tay cúi đầu mà ghi chép rằng:
Bậc hiền tài là tinh tuý của quốc gia. Tinh tuý thịnh thì thế nước mạnh và càng lớn lao. Tinh tuý suy thì thế nước yếu mà càng xuống thấp. Bởi vậy các bậc vua tài giỏi đời xưa, chẳng có đời nào lại không chăm lo nuôi dưỡng và đào tạo nhân tài, bồi đắp thêm tinh túy...”. Tư tưởng lớn này ba năm sau được nhắc lại trong bài văn bia khoa Đinh Mùi, đời Hồng Đức 18 (1487). “Nếu không có người tài đông đảo thì làm sao có được sự thịnh trị thái bình” và “Muốn có nền giáo hoá, đất nước thịnh trị thì cái gốc của nó là phải có hiền tài”...
Với hai văn bia ngắn gọn, Thân Nhân Trung đã để lại cho đời sau những ý tưởng vô cùng sâu sắc về vị trí, vai trò của người tri thức, về chính sách đối với hiền tài, nhắc nhở đời sau một chân lý lịch sử: “Kẻ sĩ có mối quan hệ thật là quan trọng đối với sự phát triển của đất nước”.
Về văn hoá, Thân Nhân Trung được Lê Thánh Tông giao cho trọng trách cùng Đàm Văn Lễ, Đỗ Nhuận soạn bộ Thiên Nam dư hạ, một bộ sách khá đồ sộ, biên soạn công phu, được tiến hành hơn 10 năm (1483-1493), gồm 100 quyển, ghi chép đầy đủ các chế độ, luật lệ, văn bản, điển lệ, các sắc... Thân Nhân Trung là người chủ trì và đề tựa. Lê Thánh Tông đánh giá cao bộ sách này và đề lên bản thảo và tựa Thiên Nam dư hạ của Thân Nhân Trung rằng:
Hỏa thử thiên đoan bố
Băng tàm ngũ sắc ti
Cánh cầu vô địch thư
Tài tác cổn long y.
(Ngàn mảnh vải lông con chuột lửa
Năm màu tơ nõn cái tằm băng
Lại tìm thợ khéo tay vô địch
May bộ áo rồng chi đẹp bằng).
Năm 1494 Lê Thánh Tông lập Hội Tao Đàn, ông được cử làm Tao Đàn phó nguyên soái. Hội Tao Đàn ra đời đánh dấu một bước tiến của thơ ca cung đình, với tác phẩm chính là Quỳnh uyển cửu ca. Hội tồn tại đến năm 1497.
Hội Tao Đàn ra đời và sự hoạt động có hiệu quả của nó trong đó có sự đóng góp khá lớn của Thân Nhân Trung, không những có tiếng vang lớn lúc đương thời, mà ảnh hưởng mãi đến đời sau.
Thân Nhân Trung trong tuổi già vẫn theo đuổi ý chí lập thân, phụng sự minh quân, phụng sự nền thịnh trị thái bình. Ông được các danh sĩ tôn vinh là bậc nhất văn chương Trùm đời. (Các thế văn chương chân đại thủ) tỏ rõ trí tuệ hơn người. Ông quả là một danh sĩ già mà chí và trí không già tràn đầy sức sống.
Là nhà văn hóa lớn, đồng thời là nhà chính trị gia uyên bác, Thân Nhân Trung đã nêu tấm gương tài cao đức trọng khiến cho kẻ sỹ đời đời mến mộ.
Cuộc đời và sự nghiệp của Thân Nhân Trung, đặc biệt là tư tưởng của ông về vinh dự và vai trò của người tri thức sẽ mãi mãi là bài học quý giá, cổ vũ mạnh mẽ cho chúng ta trong công cuộc xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Nguyễn Đăng Lâm