khach san bac ninh

Bac Ninh Tin tuc tong hop san pham lang nghe doanh nghiep Bac Ninh
Thứ hai, 28/01/2013 - 15:55

Kỷ niệm với nhà văn Đỗ Chu

Dễ phải gần năm mươi năm đã qua, kể từ lần đầu tiên tôi được tiếp xúc với sáng tác của Đỗ Chu. Ngày ấy tôi vừa tốt nghiệp trường Sư phạm Matxcơva về, được phân công đi dạy ở trường Trung cấp Ngoại ngữ Mễ Trì, ngoại thành Hà Nội, tận giáp với thị xã Hà Đông.

Quê tôi ở làng Giàu, chợ Giàu- Phù Lưu, Bắc Ninh, bố mẹ tôi sống ở quê, thành thử dạy học ở Mễ Trì tôi ở luôn trong ký túc xá nhà trường, ít có dịp về nhà. Nhưng về Hà Nội thì thường xuyên và lần nào cũng ghé đến Viện Văn học, 20 Lý Thái Tổ, nơi “một nửa” của tôi sau này, lúc đó đang ở giai đoạn tìm hiểu, được phân về công tác trong ban văn học hiện đại Việt Nam. Chính nhờ lui tới Viện Văn học, mà qua thư viện ở đấy tôi được đọc tập truyện ngắn Hương cỏ mật, cuốn sách đầu tay của Đỗ Chu. Và còn được nghe các cán bộ của Viện đi thực tế gặp tác giả bắt đầu nói về anh.

Hồi bé, những năm bốn bảy, bốn tám, đầu kháng chiến chống Pháp, theo gia đình đi tản cư bên Quan Đình, Quan Độ, cũng trong một huyện cả, có điều ở lánh xa đường sắt, đường Một. Rồi dần dà cả nhà tôi kéo nhau đi xa hơn, vượt qua sông Cầu lên đất Hiệp Hòa, Bắc Giang. Từ làng tản cư ngó xa thấy núi. Tối nhớ núi có tên là núi Mỏ Thổ thì phải, ngày nắng ráo trông rõ mồn một, thấy cả vệt đường ngoằn ngoèo có bóng người di động như đàn kiến bò-nghe bảo đấy là bà con bị bắt đi phu chở vật liệu lên xây đồn cho địch. Được chỉ cho thấy cả núi Giạm, núi Voi. Đọc truyện của Đỗ Chu có chỗ nói đến núi Voi, gợi ngay cho tôi nhớ lại về cái thuở thơ ấu ấy của tôi. Và truyện của anh đã để lại cho tôi một ấn tượng khá sâu làm tôi nhớ từ đó.

Thậm chí có đoạn văn của anh cứ luẩn quẩn mãi trong đầu tôi: “Ráng chiều tắt hẳn, những đám mây vàng trên đỉnh núi Voi lóa rực lên lần chót rồi chìm trong bóng tối. Đêm phủ xuống im lặng, đầu tiên ấm áp rồi sau đó mát mẻ cho tới sớm mai”. Hay: “Gió từ trên đỉnh núi dịu dàng thổi xuống, những cây tre đực trên lũy cọ vào nhau kêu ken két như có ai cầm mảnh sành ném vào đấy”. Nó gợi cho tôi lại nhớ đến cảnh cái làng tản cư khi xưa…

Sau này chuyển công tác về Nhà xuất bản Văn học, nơi ra cuốn sách thứ hai của Đỗ Chu, tập truyện Phù Sa, vào năm 1967, tôi cũng chưa được gặp tác giả. Chỉ được các anh chị đi thực tế có dịp đến đơn vị bộ đội ở Hàm Rồng, Thanh Hóa về kể lại để cho tôi tha hồ hình dung ra cho mình cái anh nhà văn trẻ-chàng bộ đội thư sinh Đỗ Chu. Qua nhiều trang viết của anh về quê hương anh, cũng là quê Kinh Bắc của tôi, nhà văn Đỗ Chu tự nhiên trở nên thân quen đối với tôi.

Và rồi đến khi nhà văn Đỗ Chu về học khóa viết văn Nguyễn Du của Hội Nhà văn, sau đó lại về hẳn công tác ở Hội, tôi mới có dịp gần anh. Nhưng tuy anh là người đồng hương Kinh Bắc, lại về mặt nào đấy cũng là đồng môn cùng trường Hàn Thuyên của Bắc Ninh, dù tôi hơn anh hẳn một lứa đến 6,7 tuổi và học ở Hàn Thuyên có một năm trước đó, năm học 1949-1950, nhưng lúc này anh đã là nhà văn thành danh, đi lại thân tình với các nhà văn đàn anh, trong số đó có cả nhà văn Kim Lân, người cùng làng tôi; vì thế biết nhau, nhưng tôi cũng không gần gụi với Đỗ Chu nhiều. Mãi đến khi cùng nhau có tuổi, người trước người sau về hưu, Đỗ Chu để râu, mái tóc đốm lưa thưa, chòm râu lưa thưa lốm đốm bạc, mắt thường mang cặp kính trắng, tôi mới có dịp nhiều lần cùng ngồi chuyện trò với anh trong đám anh em của Hội.

Và đầu năm Tân Mão vừa qua, lần đầu tiên Đỗ Chu khoác tay tôi, anh em đi bên nhau chuyện trò. Bữa ấy tôi được rủ cùng về thăm Tết quê nhà văn Nguyễn Tri Huân, Tổng Biên tập báo Văn nghệ. Hẹn tập trung ở trụ sở Báo, 17 Trần Quốc Toản. Lần đầu tiên được tham gia chuyến đi như thế này nên tôi đến sớm hơn giờ hẹn một chút. Một lúc sau Đỗ Chu cũng xuất hiện. Tôi áo mũ cẩn thận, còn Đỗ Chu để đầu trần-vẫn mái đầu với chòm râu lưa thưa đốm bạc với cặp kính trắng, có điều anh có khoác áo bành tô dạ đen ấm áp. Không thấy có mấy ai, Đỗ Chu rủ tôi đi với anh về bên trụ sở Hội, số 9 Nguyễn Đình Chiểu, xem anh em ban biên tập tạp chí Thơ đã đến chưa, nhân thể anh cần lấy bài nhờ ở đó đánh máy giúp. Thì ra anh nhờ đánh máy mấy bài thơ mới làm.

Đỗ Chu viết văn-văn anh nổi tiếng, ai cũng biết, Đỗ Chu bắt đầu mê thư pháp, chữ Nho, nhiều người đã được anh cho chữ, Đỗ Chu vẽ tranh-tranh anh tôi cũng đã được thấy. Lâu nay Đỗ Chu lại sáng tác cả thơ. Thơ anh bắt đầu xuất hiện trên báo chí. Bữa ấy tranh thủ còn sớm anh rủ tôi đi lấy mấy bài thơ mới sáng tác nhờ đánh máy hộ. Khoác tay tôi đi bên nhau trên hè phố Bà Triệu, Đỗ Chu cao hứng vừa đi vừa thủ thỉ đọc cho tôi nghe thơ anh.

Ờ mà thơ Đỗ Chu có tứ đấy chứ! Anh tự khen, được đấy chứ! Anh hồn nhiên đọc cho tôi nghe cả hai bài. Đến ngã năm Bà Triệu-Nguyễn Du, không hiểu sao anh bảo tôi quay lại. Thôi không đi nữa, không khéo anh em đến cả rồi. Mà quả có thế. Quay lại trụ sở Báo, bên phòng thường trực ở tầng một đã đầy xe máy đem theo gửi lại và lố nhố người. Thấy Đỗ Chu mấy anh em ở tạp chí Thơ-nhà thơ Ngô Xuân Oanh, nhà thơ Nguyễn Đức Mậu kéo vào ngồi trong cái phòng nhỏ của thường trực… Thấy chồng báo mới để đó, Đỗ Chu phát hiện có báo đăng bài thơ mình, anh lấy một tờ và viết tặng ngay cho đại diện tạp chí Thơ thì phải.

Từ đấy cho đến khi lên xe và hình như suốt chuyến đi, nhà văn “lão thành” Đỗ Chu chỉ bàn đến thơ. Anh đọc lại cho người mới đến nghe thơ mình. Anh xin giấy mượn bút, chép lại hai bài thơ mới, ký tặng. Tôi có cảm giác Đỗ Chu trẻ lại, hồn nhiên như chàng -bộ-đội-thư-sinh-nhà-văn-trẻ Đỗ Chu ngày nào với những truyện ngắn đầu tay rất ấn tượng, phần lớn gắn với mảnh đất quê hương Kinh Bắc. Đỗ Chu hiện lại tươi trẻ trong tưởng tượng của tôi ngày nào mặc dù bên cạnh tôi bây giờ trông anh còn đĩnh đạc hơn tôi-chòm râu lơ thơ, mái đầu húi ngắn đốm bạc với cặp kính lão lấp lánh.
Thúy Toàn
Top