Một thời… mặc cảm
NGND Nguyễn Thị Hương Trang chia sẻ, chính nỗi ám ảnh buổi đầu nhậm chức, chị đã cùng nhiều đồng nghiệp dành thời gian nghiên cứu chính sách, quan điểm của Đảng, Nhà nước và của tỉnh về đổi mới, phát triển giáo dục MN, sâu sát cơ sở lắng nghe tâm tư nguyện vọng của chị em, rồi từ đó tham mưu, kiến nghị với tỉnh những giải pháp tích cực giúp giáo dục MN Bắc Ninh từng bước vượt qua khó khăn.

Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân, lãnh đạo Bộ GD-ĐT trao Cờ và Bằng công nhận đạt chuẩn Phổ cập giáo dục Mầm non cho trẻ 5 tuổi cho tỉnh Bắc Ninh.
Nói đến giáo dục MN, chẳng cứ thời Hà Bắc, mà ngay cả khi tái lập tỉnh vẫn vô vàn gian khó. Cái khó tạo nên cái khổ của bậc học này do thiếu cơ chế chính sách. Nói cách khác vì MN chưa được coi là bậc học chính thức trong hệ thống giáo dục quốc dân, nên hầu như bị xã hội “bỏ rơi”. Trường MN chỉ đơn thuần là nơi trông giữ trẻ, cô giáo MN không phải là… cô giáo, mà chỉ là các cô nuôi dạy trẻ. Năm 1998, toàn tỉnh có 130 trường MN (tuyệt đại đa số là bán công, dân lập) với khoảng 2.000 giáo viên. Nói là trường cho sang chứ nhiều nơi chỉ là những công trình tạm bợ, chắp vá, chuyển đổi từ các công trình khác với tỷ lệ kiên cố rất thấp, chỉ khoảng trên 40%.
Toàn tỉnh khi đó có 2.000 giáo viên MN nhưng chỉ 1,82% trong biên chế (thấp nhất nước), và diện trong biên chế chỉ dành cho cán bộ quản lý. Trình độ chuẩn khối này tương đương sơ cấp, vậy mà toàn tỉnh cũng chỉ có 72% giáo viên MN đạt chuẩn và 4,8% trên chuẩn.
Như đã nói, do thiếu cơ chế chính sách lẫn sự quan tâm nên việc chi trả cho giáo viên MN mỗi nơi một khác, chủ yếu theo thỏa thuận, gần như là sự xin-cho. Cách chi trả phổ biến nhất vẫn là bằng… thóc, trả theo… vụ.
Thiệt thòi thế nhưng đâu phải địa phương nào cũng trả thóc đúng, đủ theo… vụ. NGND Nguyễn Thị Hương Trang kể, có lần chị phải tiếp 1 Hiệu trưởng, chị này cũng cuốc bộ từ Tiên Du lên gặp Phó Giám đốc Sở GD-ĐT, chỉ để trình bày một nguyện vọng duy nhất, là can thiệp với địa phương để họ trả thóc cho giáo viên theo vụ, chứ đừng trả theo… năm như đang làm.
Trong các hội nghị của ngành, thì hội nghị khối MN dễ nhận ra nhất. Bởi cái khó, cái khổ như in hằn trên khuôn mặt, rồi cả trang phục những đường nét, cử chỉ rất tự ti và mặc cảm, kể cả các chị Hiệu trưởng. Có chị trong hội nghị thì sôi nổi, ra ngoài không dám nhận là… giáo viên MN. Cũng có những chị, dù rất yêu nghề nhưng cơ chế lẫn nhận thức, cách nhìn thiếu thiện cảm của xã hội đã khiến họ phải bỏ nghề.
Năm 2000, trường MN Nhân Thắng (Gia Bình) trở thành trường MN đạt chuẩn Quốc gia đầu tiên của tỉnh. Các đoàn đến học tập kinh nghiệm. Nhưng tiếng là chuẩn Quốc gia, trên thực tế trường MN Nhân Thắng khi ấy vẫn tồn tại tới 4 điểm lẻ, nằm rải rác ở các thôn, các đoàn muốn học cũng rất khó.
Trang mới của giáo dục Mầm non
Tái lập tỉnh, trong điều kiện vô vàn khó khăn, chiếc bánh ngân sách phải chia đều cho nhiều lĩnh vực, nhưng nỗi niềm các cô giáo MN vẫn cứ khiến cho những người có trách nhiệm phải day dứt, phải vắt óc tìm giải pháp khả thi tham mưu với tỉnh giúp hơn 2.000 cô giáo MN vợi bớt khó khăn.
Năm 2000, toàn ngành hân hoan đón Quyết định 110 của UBND tỉnh về việc hỗ trợ 1 hệ số lương cơ bản/tháng cho giáo viên MN, các trường MN xây mới được tỉnh hỗ trợ từ 20% đến 40% tổng kinh phí. Dẫu chưa đáp ứng được nhu cầu, nhưng Quyết định 110 của tỉnh đã mở ra nhiều bước đột phá về cơ chế chính sách cho giáo dục MN trong tương lai.
Cùng với những bước tiến vượt bậc của tỉnh trên đường CNH, HĐH, ngày càng nhiều người dân được hưởng lợi từ chính sách an sinh xã hội của tỉnh. Các cô giáo MN là con liệt sỹ, thương binh nặng được tuyển vào biên chế, nhưng đến năm 2009, tỷ lệ này mới đạt 24,6%. Câu chuyện biên chế vẫn là điều quá xa vời với ¾ giáo viên MN trong toàn tỉnh.

Hướng dẫn trẻ Mẫu giáo 5 tuổi chơi trò “Bé tập làm bác sỹ” tại trường Mầm non Hoa Hồng (thành phố Bắc Ninh).
Kinh tế phát triển, các cơ chế hanh thông của tỉnh đã tạo nhiều vận hội tốt cho giáo dục, nhất là giáo dục MN chuyển mình bứt phá. Kiên trì các giải pháp tham mưu tích cực, ngành GD-ĐT đã giúp tỉnh ban hành nhiều quyết sách mang tính bước ngoặt, có lợi cho giáo viên MN. NGND Nguyễn Thị Hương Trang nhớ mãi cái cảm xúc tháng 4-2011:
“Sau một thời gian dài đề xuất, kiến nghị rồi thắc thỏm mong ngóng, lãnh đạo sở chúng tôi cùng hơn 2.400 cán bộ giáo viên ngành học MN như “vỡ òa” trước những quyết định đột phá của tỉnh tác động trực tiếp đến quyền lợi của từng trường, từng giáo viên MN tỉnh Bắc Ninh: 135 trường MN bán công được chuyển thành công lập, 2.186 giáo viên MN hợp đồng đủ điều kiện được tuyển thẳng vào biên chế (không qua thi), và cũng như các bậc học khác việc xây mới trường MN được tỉnh hỗ trợ 100% kinh phí xây dựng… Để có được cái “vỡ òa” như thế, những người chức việc ngành giáo dục phải trải qua 6 cuộc tham vấn, giải trình khúc triết từng vấn đề liên quan mới thuyết phục được lãnh đạo tỉnh và các ngành hữu quan của tỉnh cùng nhất trí phê duyệt các đề án nói trên. Các quyết định trên, nhất là quyết định tuyển giáo viên vào biên chế, được phê duyệt hàng tháng, mà nhiều giáo viên MN dưới cơ sở vẫn không tin là… thật!”.
Như vậy từ 1 tỉnh có hệ thống giáo dục MN thấp kém, đến nay giáo dục MN Bắc Ninh đã trở thành điểm sáng, dẫn đầu toàn quốc trên nhiều lĩnh vực: Năm 1998, từ 1,82% giáo viên trong biên chế đến nay toàn tỉnh có 77,6%, tương đương 2.798 cán bộ, giáo viên trong biên chế. Năm 1998, toàn tỉnh chỉ có 72% giáo viên đạt chuẩn và 4,8% giáo viên trên chuẩn, thì đến nay 100% giáo viên MN đã chuẩn hóa, trong đó 96% trên chuẩn. Năm 2000, toàn tỉnh chỉ có 1 trường chuẩn Quốc gia, thì đến nay đã có 108/150 trường MN đạt chuẩn Quốc gia mức 1, chiếm 72% và 7 trường MN đạt chuẩn Quốc gia mức 2...
Đặc biệt, đến năm 2012 khi nhiều tỉnh vẫn còn loay hoay với khái niệm phổ cập giáo dục MN cho trẻ 5 tuổi, thì tháng 5-2012 Bắc Ninh đã sớm về đích, trở thành tỉnh đầu tiên trong toàn quốc được Thủ tướng Chính phủ, Bộ GD-ĐT tặng Cờ và Bằng công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục MN cho trẻ 5 tuổi (tháng 7-2012). Phát biểu tại lễ đón nhận, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân ca ngợi tỉnh Bắc Ninh với nhiều chính sách địa phương riêng có, đã tiên phong hoàn thành đề án lớn của Chính phủ (Đề án phổ cập giáo dục MN cho trẻ 5 tuổi), trở thành mô hình điểm cho nhiều tỉnh, thành phố học tập kinh nghiệm.
Giáo dục MN Bắc Ninh đã sang trang mới, đã trở thành bậc học chính thức trong hệ thống giáo dục quốc dân. Nhiều quyết định đột phá riêng có của tỉnh đã khiến cho hàng nghìn giáo viên MN Bắc Ninh phải “vỡ òa” vì xúc động. Vậy sang năm 2013 và những năm tới, họ sẽ phải làm gì để giáo dục MN Bắc Ninh tiếp tục là điểm sáng toàn quốc, để xứng với sự quan tâm chăm lo của tỉnh…?
Câu trả lời trước hết thuộc về các nhà quản lý giáo dục, tiếp đến các vị Hiệu trưởng và mỗi cán bộ, giáo viên khối MN của tỉnh Bắc Ninh.