Thứ ba, 19/02/2013 - 10:35
Chất trầm hương Duy Phi
Phi ơi! Duy Phi ơi! Thế là…, sao anh vội vàng quá vậy? Tôi vẫn ngóng các tờ báo Xuân Quý Tỵ, như mọi năm, tìm bài viết của anh để đọc và bình cho bầu bạn quê hương cùng chia sẻ. Nỗi đau cập rập đè lên tức nghẹn, tim tôi vốn cũng yếu rồi.
Tuần trước, cầm tay anh bên giường bệnh, có chị An và cháu Dương, thấy anh đau lắm, lạc giọng, tôi không nỡ để anh nói. Thế là chúng mình đã nói được gì với nhau đâu? Lời trăng trối dặn dò của anh, anh đã vội mang đi hồi 8 giờ ngày 17 tháng Chạp Nhâm Thìn (28-1-2013). Tháng này thiếu, chỉ còn hơn 10 ngày nữa để chúng ta tay bắt mặt mừng bên mấy tờ báo Tết, ấm trà Xuân và hương hoa trước bàn thờ cụ kị. Không kịp nữa rồi! Đau lắm.
Tôi với Duy Phi cùng tuổi Canh Thìn (1940). Mới lên 5, ra cổng mắt đã thấy người chết đói, 6 tuổi, tai đã nghe tiếng réo đại bác bắn từ đồn Tây ở Thiên Thai (đường chim bay chỉ 2 cây số) và đồn Cẩm Giàng (cũng chỉ dăm cây số là cùng) nã xuống làng mình.
Cắp sách đến trường A B C đã xếp hàng hát “Cùng nhau đi hồng binh” và tập chạy vào tăng xê tránh bom đạn. Ngút trời khói lửa, gồng gánh tản cư. Rồi cũng đến ngày chúng mình cả lớn, đi dạy học và làm thơ. Anh ở Sao Đỏ, rất gần Côn Sơn để anh viết: Nguyễn Trãi xưa làm vườn/Bốn mùa hoa thắm nở/Học trò Người bốn phương/Nền lớp xưa còn đó (D.P. Bác về Côn Sơn). Tôi ở Thuận Thành, thỉnh thoảng gặp Hoàng Cầm về quê, tôi lại khoe thơ Duy Phi chín sớm. Có lẽ ơn nhờ nguồn nước Sái Thuận, Nguyễn Gia Thiều chăng?
Tôi có anh ruột và anh có em ruột cùng đi B đầu năm 1968, cả hai đều nằm lại ở Tây Ninh. Hai mẹ già của chúng ta, cạn khô nước mắt, tóc trắng rụng gài liếp cửa. Rồi anh chuyển vùng công tác, về Hội văn nghệ Hà Bắc, định cư cả gia đình ở thành phố Bắc Giang. Thỉnh thoảng lên thăm anh, gặp bạn bè văn nghệ trên này: Đặng Tiến Huy, Chu Ngọc Phan, Vũ Từ Sơn, Anh Vũ, Trịnh Kim Hiền, Tân Quảng, Đồng Thị Chúc, Vương Tùng Cương, Tô Hoàn... Tôi biết anh được mọi người quý mến, tin yêu, nể trọng vì cả tâm và tài.
Bảo là cô đơn, là độc hành thơ, thì Canh Thìn càng cô đơn, cùng tuổi anh, tôi thấm lắm. Nhưng mà với Duy Phi hơn 30 đầu sách, riêng thơ 12 tập, rồi tiểu thuyết, khảo luận, dịch thuật... sao anh đa tài thế? Và đa tình nữa, tình quê, tình bạn, tình yêu, tình đời và đắm đuối với tổ ấm Môn như thị (Nhà anh ở giữa chợ Thương) ồn ào, náo nhiệt càng Ngổn ngang trăm mối (tên một tập thơ của D.P.).
Có thơ đăng báo từ 1956 đến nay (2013), gần 60 năm cầm bút, anh để nhớ để thương cho nhiều thế hệ bạn đọc gần xa. Tuần báo Văn nghệ số 46 (14-11-2009) ở trang Mỗi tuần gặp một nhà văn, phác họa chân dung anh, tôi có bài “Định vị một phong cách thơ”. Trước đó, số Tết Mậu Tý 2008, cũng trên tờ Văn nghệ tôi có bài “Người thơ với tình quê”, bình bài thơ “Ngày xuân gặp lại bạn xưa” của anh. Sau những dâu bể, biến thiên, quá nửa đời tha hương lại có dịp hồi cố. Anh có câu: Tín nghĩa vàng ròng, ta với quê. Lời gan ruột ấy, đọc một lần là nhớ.
Thời khắc nghiệt ngã này, viết những kỉ niệm về anh, lòng tôi cũng ngổn ngang trăm mối. Nhân cách sống, lửa nhiệt tình và tài năng sáng tạo của anh, phong cách thơ anh, sự nghiệp văn học phong phú, đa dạng, giàu xúc cảm nghệ thuật của anh, bạn đọc bình thường cũng dễ gì quên được, huống nữa là tôi, đồng hương, đồng niên, đồng nghiệp, gắn bó với nhau cả một kiếp người!
Nhớ anh, nhớ bài “Cây dã hương ngàn tuổi”: Đất Trung Du sỏi đỏ/Vẫn lọc được ngát trầm. Chất trầm hương Duy Phi, khiêm cung nhường ấy, tài hoa nhường ấy, Duy Phi ơi, trước ngưỡng cửa mùa xuân, sao anh vội vã ra đi!
Nguyễn Văn Chương