Giữ “lửa” cho làng nghề
Làng nghề sắt thép Châu Khê (thị xã Từ Sơn) thời điểm “hoàng kim” có đến gần 60% số hộ làm nghề với nhiều công ty, HTX giải quyết việc làm cho gần 7.000 lao động trong và ngoài địa phương thì đến nay, số doanh nghiệp (DN) và hộ sản xuất tạm dừng hoạt động lên tới 70 - 80%, số còn lại phần lớn sản xuất cầm chừng để giữ công nhân. Sức mua giảm, sản phẩm làm ra không tiêu thụ được là nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng trên. Ông Trần Khắc Huỳnh, Giám đốc Công ty TNHH Huỳnh Đỉnh-một trong những DN phát triển nhưng nay chỉ duy trì sản xuất cho biết: “Trước kia, Công ty sản xuất bình quân 2.000 tấn sắt thép/tháng. Nhưng hơn 1 năm nay do chi phí đầu vào tăng, sản phẩm làm ra khó bán nên giảm xuống còn 700-1.000 tấn sắt thép/tháng”.
Đồng Kỵ (thị xã Từ Sơn) vốn là một trong những làng nghề nổi tiếng và từng được mệnh danh là “Làng tỉ phú”, “Làng giám đốc” cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởng. Quy mô sản xuất giảm đến 50 - 60%, nhiều công ty, cơ sở sản xuất chỉ hoạt động cầm chừng hoặc tạm thời đóng cửa vì sản phẩm có “cung” mà không có “cầu”.

Sản phẩm của cơ sở sản xuất tranh, chữ đồng Hùng Lệ.
Các LNTT là niềm tự hào của tỉnh và giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động. Nhưng vài năm gần đây, quy mô nhiều làng đang ngày càng bị thu hẹp, số lao động theo nghề rơi rụng dần. Phân tích nguyên nhân của thực trạng trên, ông Vũ Kim Giáp, Phó Chi cục trưởng Chi cục Phát triển Nông nghiệp nông thôn (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết: Sản phẩm làm ra không tiêu thụ được nên nhiều hộ phải tìm nghề khác để mưu sinh. Vấn đề thiếu vốn, khả năng cải tiến mẫu mã kém, mức độ nhạy cảm với thị hiếu tiêu dùng không cao dẫn đến việc duy trì, phát triển nghề truyền thống rất khó khăn, chật vật”.
Tuy nhiên, trong khó khăn chung vẫn có những DN, hộ sản xuất tự tìm cho mình những hướng đi mới để khẳng định vị thế, tiếp tục tồn tại và phát triển. Công ty TNHH Việt Hà ở Đồng Kỵ chuyên sản xuất gỗ mỹ nghệ là một điển hình như thế. Bằng khả năng cạnh tranh, sức sáng tạo nội lực, Công ty vẫn vững vàng phát triển với doanh thu đạt gần 35 tỷ đồng (năm 2012), tạo việc làm ổn định cho 80 - 100 lao động cho thu nhập bình quân 5-7 triệu đồng/người/tháng. Theo ông Nguyễn Văn Khanh, Tổng Giám đốc Công ty, để có được thành công đó, DN đã phải kiên quyết duy trì hoạt động theo tiêu chí: Vững về năng lực tài chính, mạnh về trang thiết bị, bề dày kinh nghiệm và đặc biệt là chữ Tín với đối tác.
Ở thời điểm này, dây chuyền sản xuất của Công ty Cổ phần giấy Hưng Lợi, Phú Lâm (Tiên Du) vẫn hoạt động hết công suất, đạt gần 450 tấn giấy bao bì/tháng, bảo đảm sản phẩm giao cho khách hàng ở khắp các tỉnh, thành phố trong cả nước; tạo việc làm ổn định cho 40 cán bộ công nhân viên với thu nhập từ 3-7 triệu đồng/người/tháng. Có được thành quả này là công ty thực hiện hiệu quả phương châm “làm đơn hàng nào dứt đơn hàng ấy; vừa sản xuất vừa phải nghiên cứu nhu cầu thị trường, vốn vay sử dụng đúng mục đích, không đầu tư dàn trải, không sản xuất ồ ạt dẫn đến hàng tồn kho nhiều,…”.
Khác với Việt Hà, Hưng Lợi, Hợp tác xã Mây tre đan xuất khẩu Toàn Phong, Giang Sơn (Gia Bình) đã vượt qua khó khăn, duy trì sản xuất, tạo việc làm ổn định cho nhiều lao động bằng cách liên kết với Công ty Dệt 10-10 nhận bao tiêu sản phẩm... Còn cơ sở sản xuất tranh, chữ đồng Hùng Lệ ở Đại Bái (Gia Bình) vẫn phát triển mạnh mẽ được là nhờ việc tìm kiếm và mở rộng thị trường trong và ngoài nước cũng như thay đổi mẫu mã sản phẩm, đặc biệt là giữ chữ Tín với khách hàng truyền thống.
Những điển hình trên mới chỉ là những tia sáng nhỏ chưa đủ sức mạnh để vực làng nghề dậy sau suy thoái kinh tế. Trước sự tác động của các KCN tập trung, dòng chảy lao động đang nghiêng về những nơi có mức lương hấp dẫn hơn nên số lao động theo nghề ngày càng vơi dần, các làng nghề đang đứng trước nguy cơ bị mai một nếu không được tiếp sức kịp thời!
Mở hướng đi phát triển
Khó khăn nhất ở LNTT là do “tắc” ở khâu tìm đầu ra cho sản phẩm. Từ trước tới nay, hầu hết các DN bao tiêu sản phẩm mới chỉ là trung gian chứ không phải DN xuất khẩu trực tiếp, do đó lợi nhuận cho người sản xuất quá thấp, chi phí trung gian nhiều khâu đã đội giá thành lên cao, làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa. Trong khi đó, các LNTT chưa kham nổi các chương trình quảng bá, tiếp thị, khảo sát thị trường, đặc biệt là thị trường nước ngoài để định hướng sản xuất, tạo ra các sản phẩm có chất lượng, mẫu mã, đáp ứng yêu cầu xuất khẩu. Vì thế, nhiều làng nghề đang ở trong tình trạng chỉ mới sản xuất ra những gì mình có, chứ chưa làm ra cái thị trường cần. Để khắc phục tình trạng trên, tỉnh đã có những hỗ trợ mang tính chất kích cầu cho các làng nghề và các DN sản xuất, kinh doanh mặt hàng truyền thống của tỉnh thông qua kinh phí cho khuyến công và xúc tiến thương mại. Qua đó, đã có nhiều DN được hỗ trợ để làm mặt bằng, hỗ trợ tư vấn về công nghệ; tham gia các hội chợ trong và ngoài nước để giới thiệu sản phẩm, tìm kiếm đối tác, mở rộng thị trường; hỗ trợ để các DN xây dựng thương hiệu, cải tiến mẫu mã thông qua cuộc thi lựa chọn sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu…
Những hoạt động trên nhằm tìm một hướng đi cho các làng nghề trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay. Theo ông Trần Văn Hiện, Giám đốc Trung tâm Khuyến công và Tư vấn Phát triển Công nghiệp (Sở Công Thương): Trong khi các làng nghề còn gặp nhiều khó khăn thì sự chủ động của DN là yếu tố quyết định. Đây không chỉ là mô hình mà còn là hướng đi tất yếu cho hàng trăm làng nghề của tỉnh. Chỉ có như vậy, người lao động và sản phẩm làm ra mới có nguồn tiêu thụ ổn định. “Buôn có bạn, bán có phường”, các DN, tổ chức kinh doanh sản phẩm truyền thống, các tổ, đội sản xuất cần có sự liên kết, hỗ trợ nhau trong việc sản xuất, thông tin thị trường, tìm kiếm bạn hàng tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra, các làng nghề cũng cần quan tâm đến xây dựng, quảng bá thương hiệu cho các làng nghề, sản phẩm làng nghề…
Hiện thực hóa những điều đó nhất thiết phải có một lực lượng lao động mới có tri thức khoa học, được đào tạo để họ không chỉ nắm vững kỹ thuật ngành nghề, am hiểu văn hoá mà còn thích ứng nhanh trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, điều cốt lõi là mỗi người dân làng nghề phải thực sự nâng niu trân trọng, gắn bó máu thịt, quyết tâm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá của nghề.