Năm 1928, khi đang học năm thứ hai trường Bưởi vì tích cực tham gia phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên, Nguyễn Văn Cừ bị đuổi học, từ đây chính thức trở thành nhà hoạt động cách mạng chuyên nghiệp. Mười năm trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng vùng mỏ Đông Bắc, khi bị địch bắt, tra tấn dã man và giam cầm, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng. Qua thực tiễn đấu tranh đồng chí đã trưởng thành về mọi mặt, trở thành Tổng Bí thư của Đảng vào tháng 3- 1938, khi chưa đầy 26 tuổi.
Đảm nhiệm trọng trách cao nhất của Đảng, trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp, đồng chí đã chỉ đạo và viết nhiều bài báo, tác phẩm mang tính lý luận về con đường cách mạng của Đảng, nhất là sau bầu cử Hội đồng quản hạt ở Nam Kỳ, đồng chí đã viết và cho xuất bản ‘‘Tự chỉ trích” tháng 7-1939. Tác phẩm ra đời không chỉ góp phần thống nhất tư tưởng và hành động trong Đảng lúc bấy giờ mà còn có giá trị thực tiễn to lớn trong công cuộc đổi mới hiện nay.

Ôn lại kỷ niệm về Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ tại Khu di tích lịch sử Ngã Ba Giồng-Hoóc Môn-Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: Trung Hiệp
Trong ‘‘Tự chỉ trích’’ đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã phân tích, làm rõ về những thất bại trong bầu cử Hội đồng quản hạt ở Nam Kỳ với tinh thần thẳng thắn, nghiêm túc, thái độ khách quan, phương pháp khoa học đúng đắn trong tự phê bình và phê bình những sai lầm, khuyết điểm. Đồng chí nêu rõ những nguyên tắc cần nắm vững khi thực hiện tự phê bình và phê bình trong Đảng: “Tự chỉ trích” Bôn sơ vích không phải là công kích Đảng, mạt sát Đảng, đặt danh dự cá nhân lên trên tất cả quyền lợi của Đảng, của cách mệnh”. “Đảng cộng sản Đông Dương có con đường chính trị xác đáng, đã cương quyết tận tụy bênh vực quyền lợi cho dân chúng, điều ấy đã hẳn và được chứng tỏ, nhưng cũng chắc rằng Đảng còn trẻ tuổi nên còn phạm nhiều khuyết điểm, nhiều sự sai lầm, điều ấy Đảng luôn tự chỉ trích thành thật và mạnh dạn công khai nhận để sửa đổi. Mỗi đảng viên có quyền tự do thảo luận và chỉ trích, nhưng phải có nguyên tắc…” (1). “Bao giờ tự chỉ trích cũng là tự chỉ trích Bôn sơ vích, nghĩa là để huấn luyện quần chúng và giúp đảng viên tự huấn luyện, để làm tăng uy tín và ảnh hưởng của Đảng, để làm cho Đảng được càng thống nhất và củng cố, để đưa phong trào phát triển lên, đưa cách mạng tới thắng lợi”.(2)
Đồng chí cũng nhấn mạnh nguyên tắc cần thiết trong tự phê bình và phê bình: “Công khai, mạnh dạn, thành thực vạch những lỗi lầm của mình và tìm phương châm sửa đổi, chống những xu hướng hoạt đầu, thoả hiệp, như thế không phải làm yếu Đảng, mà làm cho Đảng được thống nhất, mạnh mẽ. Làm như thế không sợ địch lợi dụng, chửi rủa, vu cáo cho Đảng, không sợ “nối giáo cho giặc”; trái lại, nếu “đóng kín cửa bảo nhau”, giữ cái vỏ thống nhất mà bên trong thì hổ lốn một cục, đầy rẫy bọn hoạt đầu, đó mới chính là để cho quân thù chửi rủa, hơn nữa, đó tỏ ra không phải một đảng tiên phong cách mạng, mà là một đảng hoạt đầu cải lương”(3). Đồng chí cũng nhấn mạnh một số bài học về cuộc bầu cử, vai trò ảnh hưởng của Mặt trận, đặc biệt đồng chí đề cập nhiều vấn đề về chiến lược và sách lược của Đảng, sự cần thiết thống nhất ý chí, hành động của Đảng, tăng cường công tác xây dựng Đảng.
Cống hiến lớn lao của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ được thể hiện trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6, tháng 11-1939. Hội nghị đã quyết định nhiều vấn đề chiến lược rất quan trọng: chuyển hướng hoạt động của Đảng từ công khai, bán công khai sang hoạt động bí mật; từ lãnh đạo quần chúng đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ, đòi tự do cơm áo, hoà bình sang đấu tranh đánh đổ chế độ thực dân và phong kiến tay sai giành độc lập cho các dân tộc Đông Dương. Quyết định tạm gác khẩu hiệu ruộng đất, đề ra khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phong kiến phản bội dân tộc; thay khẩu hiệu thành lập chính quyền Xô viết công- nông-binh bằng khẩu hiệu thành lập Mặt trận chính quyền Cộng hoà dân chủ; quyết định thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thay Mặt trận dân chủ Đông Dương…
Với Nghị quyết Trung ương 6 đã đưa cách mạng Việt Nam bước sang thời kỳ mới, thời kỳ giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc “Lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết”. Đây là sự nhạy bén, sáng tạo của Trung ương, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ. Nghị quyết Trung ương 6 đã được các nghị quyết Trung ương 7, Trung ương 8 bổ sung, hoàn thiện tạo nên những nhân tố cơ bản để dân tộc ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng tiến hành cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 6, tr 622.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 6, tr 623.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 6, tr 629.