Nhưng không hiểu sao, hàng tháng nay cô như kẻ mất hồn. Bữa cơm chiều dọn ra, cô chậm truội ăn chưa hết bát thì đứng dậy bảo: “Cháu ăn rồi dọn đi!”. Tôi liếc nhìn: Cô ra bể rửa mặt, rồi lên giường, nằm áp mặt vào gối. Tôi vội theo chân vào: “Cô mệt ư? Để cháu thoa dầu cho cô”!. Cô xua tay bảo: “Không cần đâu. Để cô nằm yên một chút”. Tôi ra thu dọn nhà cửa, mâm bát rồi cũng sớm đi nằm cùng cô. Biết người độc thân hay có những nỗi buồn, tôi lẹ lời an ủi: “Cô ơi, để con đấm lưng cho cô. Người có tuổi thường đau cơ bắp…”. Cô im lặng. Một bên cánh môi nhếch lên như người cười mỉm. Tôi xòe tay bóp nhẹ vào cánh vai cô, rồi “đấm – chặt” như người bắt bão, xuôi theo đốt sống. Thấy cô nằm im, hai mắt lim dim như người buồn ngủ, tôi dùng tay mình bấm huyệt từ gáy lên đỉnh đầu. Qua cái cổ áo khoét rộng, tôi thật sự bất ngờ: ở tuổi cô mà bộ ngực trắng ngần như tuyết, vẫn giữ được hai núm vú hồng trinh nguyên như thời con gái. Có thể nỗi cô đơn kéo dài, không người chăm sóc, nên cô để yên cho tôi mát sa, bấm huyệt. Vậy là mớ lý thuyết học được ở lớp huấn luyện đông y, nay được thực hiện phục vụ cho chính người thân của mình, là bà cô ruột.
Cô vẫn nằm thoải mái. Một bên má áp lên mặt gối trắng tinh, có thêu hình hai con chim cắn mỏ nhau, trên một nhành hoa rất đẹp. Thỉnh thoảng, cô buông tiếng thở dài. Mãi khuya, cô ngồi dậy rồi bất ngờ hỏi tôi: “Cháu biết làng mình sắp đón Việt Kiều về không ?”. Tôi ngơ ngác, lắc đầu. Cô thầm thì, nói tiếp: “Anh em ông Sỹ ở Mỹ sắp về. Làng đang làm rạp đón rước ở sân đình…”.
- Thế thì sao hả cô ? Năm nào họ chả về đón tết !
Cô gật đầu:
- Nhưng lần này, họ về ở hẳn.
Tôi không hiểu anh em ông Sỹ về ở hẳn thì can hệ gì với cô, mà hàng tuần nay, cô thơ thẩn tới mức “quên quên – nhớ nhớ”. Ngay cả chiều nay, cô biếng ăn – mất ngủ. Sau đó, cô cháu tôi lại rơi vào tĩnh lặng. Căn buồng hẹp chỉ còn lại tiếng muỗi vo ve. Thỉnh thoảng con Thạch Sùng thò đầu bên cánh liếp, nhao đuổi bạn tình không được, lại tặc lưỡi than phiền. Không để cô buồn lâu, tôi giục “Khuya rồi, cô ngủ đi !”. Nhưng không chịu, cô níu cánh tay tôi ngồi dậy, đúng lúc chiếc đồng hồ “bính boong” điểm nhịp 12 giờ đêm. Câu chuyện về gia đình ông Sỹ được cô kể lại vắn tắt mà rành rọt:
- Năm 1954 cả gia đình di cư vào Nam. Vợ ông Sỹ ác lắm đối xử với vợ chồng ông Công còn cay nghiệt hơn cả mẹ chồng. Một lần vợ chồng ông Công chuẩn bị đi Đà Lạt để hưởng “tuần trăng mật” thì bà Sỹ đưa ra một mớ tóc rối, bắt em dâu phải gỡ mối làm độn tóc rồi mới được đi. May mà về sau, vợ chồng ông Công làm ăn khá giả, nên mới không lệ thuộc.
- Còn ông Sỹ thì giỏi giang hơn, hết làm kí ga xe lửa, lại buôn hàng cung ứng thiết bị cho nhà binh. Vì thế mà tiếng Anh, tiếng Pháp ông nói trơn tru hơn cả tiếng mẹ đẻ. Buồn nỗi là ông bà có người con lớn lại tử trận trong cuộc giao tranh ở cao nguyên Trung Phần. Riêng chú Út, tính hung hăng - ngổ ngáo, nhiều lần thăng quan, tiến chức trên con đường binh nghiệp. Nghe đâu năm “bẩy nhăm”, mọi người tháo chạy, ông đưa được vợ con lên chiếc xuồng máy, chạy ra tàu biển, còn mình ông ở lại. Có người còn nhìn thấy ông: mình trần, quần cộc, hai tay hai súng, đi lại như điên trên sân bay.
Rồi có người còn bảo: Ông lần đường ra Bắc, tìm về quê; đến một hôm tối trời, ông dừng lại, không đủ can đảm để vượt sông sang bờ bên kia. Dưới ánh sao mờ tỏ, ông quì xuống vái vọng về làng như một kẻ ăn năn rồi trở lại miền Nam. Nghe đâu, ông phải vào trại cải huấn, mãi sau mới được sang Mỹ theo con đường “HO - OH” gì đó. Sang đến Mỹ, ông mới ngã ngửa vì câu chuyện đau lòng: vợ con mình sa vào tay hải tặc. Chúng thay nhau hãm hiếp. Vàng bạc chúng cướp sạch rồi ném đứa con ba tuổi xuống biển khơi. Từ bấy vợ ông mang bệnh vô sinh và tâm thần phân liệt. Cũng từ bấy ông mang lòng thù hận nước Mỹ và càng hận thù thêm Cộng sản.
Giờ, chuyến về này chỉ có vợ chồng ông Sỹ, bà Công và con cái, mà không có ông Út và thiếu vắng ông Công.
Kể đến đấy, giọng cô tôi nghẹn lại như người đuối hơi. Tôi bảo: “ở bên Mỹ họ giàu thế. Nghe đâu mấy năm trời, anh em ông Sỹ gửi tiền của về công đức cho dân Tam Thôn, rồi bên ngoại, số tiền lên tới bạc tỉ, qui ra vàng lúc ấy phải mấy kilô. Sao chuyến này, ông Út và ông Công không về hả cô ?”
Cô tôi lắc đầu ngao ngán: “Chuyện về hay ở, anh em ông Sỹ có lúc gần như to tiếng với nhau. Họ chưa thật tin ở thể chế của mình. Vì cụ ông xưa bị Việt Minh xử tội. Con trai lớn ông Sỹ đi lính Ngụy tử trận. Chú ruột là ông Út lại làm lớn trong “Phủ đầu Rồng”. Một trang lý lịch như thế làm sao họ không khỏi băn khoăn. Riêng ông Út còn ra sức giữ chân các cháu. Ông bảo: “Mình là nhà khoa học, được các nước Tây Âu trọng dụng. Tội gì ở bể lại rút về ngòi ? Đã là người tài thường xem nhẹ danh vọng, tiền bạc. Về nước, dù điều kiện làm việc, nghiên cứu khó khăn, mình có thể khắc phục. Nhưng cái đáng sợ nhất là cách đối xử. Liệu mình có được tôn trọng hay không ?”.
Vợ chồng ông Sỹ lúc đầu còn rụt rè, nhưng đến khi hai người con đều là tiến sỹ khoa học, liên tiếp chết vì chứng bệnh ung thư và tai biến mạch máu não, giữa lúc tuổi đời còn rất trẻ, thì vợ chồng ông mới quyết định: bỏ xứ người, về quê cha đất tổ. Ông bảo: “Mình tha hương xứ người lúc đầu vì lòng thù hận và không hiểu. Nhưng đến nay, gần hết cuộc đời, tôi mới nhận ra: Không gì bằng nơi chôn rau - cắt rốn, nơi mình mang tiếng khóc chào đời, với bao kỉ niệm buồn vui. Nhớ lúc cụ ông không còn, mình mẹ phải đầu đội vai mang, thức khuya dậy sớm, nuôi một đàn con ăn học; trong lúc ngoài đường, người chết đói như ngả rạ. Lúc các chú còn nhỏ, tôi đã tận mắt chứng kiến tội ác của giặc Pháp, phát xít Nhật, rồi bọn Tàu Ô vào quấy nhiễu. Dân mình khổ lắm chứ đâu được như bây giờ. Ba mươi năm dòng người ta lãnh đạo đất nước, đổ máu, hy sinh, chịu cảnh tù đày, mới giành được độc lập. Nay những người ngoài cuộc, thậm chí cả người ở hàng ngũ bên kia đòi “Mở rộng tự do dân chủ”, nhằm nhảy vào chia sẻ quyền lực, thì ai người ta chịu. “Đa nguyên - đa Đảng” có thể là một xu thế ở các nước phương tây, nhưng với nước mình vừa trải qua cuộc chiến tranh khốc liệt, cần có thời gian để phát triển kinh tế và hàn gắn vết thương. Không cẩn thận - vững tay chèo, đất nước lại rối loạn như một số nước thì dân mình sẽ khổ.
Có đi nhiều nơi mới thấy: Không đâu bằng nước mình, bốn mùa: xuân, hạ, thu đông. Xứ người giá băng, lạnh lẽo. Nên tôi thấy mình cần phải về để được thắp nén nhang lên mộ phần của ông bà, cha mẹ. Và lúc chết cũng được gửi nắm xương tàn ở quê !...
Lúc ấy, ông Công mới đưa ra tấm ảnh, nhắc lại lần đón tiếp Việt Kiều khắp nơi trên thế giới, về đón xuân tại thủ đổ Hà Nội. Mình giơ máy ảnh. Đúng lúc người đứng đầu nhà nước sau khi chúc tết mọi người, ông bảo: “Tôi không nhầm thì anh Kỳ cũng ở trong khán phòng này?”. Nói rồi, ông rời diễn đàn, bước vội xuống tận hàng ghế bên kia, xiết chặt tay Nguyễn Cao Kỳ, trong tiếng vỗ tay nồng nhiệt.
Đây quả là bức ảnh có một không hai của sự hoà hiếu dân tộc, không phân biệt người thắng, kẻ thua.
Nói rồi, ông cười: “Qua ti vi, mình còn nhìn thấy chính vị đứng đầu nhà nước ấy hai lần mặc áo thô, cầm cày - vỡ đất. Xưa chỉ có Cụ Hồ là người gần gũi với nông dân và đồng ruộng, nay lại có người kế tiếp làm theo”.
Ông Sỹ gật đầu phụ hoạ: “Dân tộc mình kỳ diệu lắm. Một nghìn năm Bắc thuộc, dân mình vẫn không bị “đồng hoá”. Bạo tàn như Pháp và Mỹ rồi cũng chịu thua. Tôi tin đất nước mình đã sinh ra cụ Hồ Chí Minh, thì trước sau nó vẫn phải đi theo con đường Cụ Hồ Chí Minh đã chọn !”.
Kể đến đấy, cô tôi ôm ngực đầu rũ xuống. Tôi phải đỡ cô ngả xuống gối. “Cô ơi, mai cô gặp lại ông Công rồi, hẳn cô sẽ khoẻ thôi!”.
Cô lắc đầu mỏi mệt:
- Không. Chẳng bao giờ ông ấy về nữa !
- Sao thế hả cô ?
Cô tôi gần như chết lặng:
- Ông ấy bị tai nạn máy bay, gần nửa năm rồi !
Tôi chưa kịp hỏi : Sao cô lại biết tường tận mọi điều đến thế, thì cô chỉ tay vào cái bọc cạnh gối, nói một cách khó nhọc: “Đây là… tài sản…. cô dành cho con !...”.
Tôi lóng ngóng mở cái túi vải điều: Một quyển sổ đỏ chứng nhận quyền sở hữu nhà đất mang tên tôi. Di chúc soạn thành văn bản, rồi thư từ, nhắn tin trao đổi, cùng nhiều ảnh ông Công và những trang nhật ký. Tất cả được lưu trong máy tính xách tay. Đây hẳn là món quà ông Công tặng cô. Một lần nữa, tôi gần như chết lặng. Thì ra bao năm rồi cô chôn giấu những kỉ niệm thời nữ sinh trường Đồng Khánh – Cái thời cô thuộc lòng thơ lãng mạn từ nguyên bản tiếng Pháp. Cô bảo: cứ chiều chiều, ông Công lại đón cô ở cổng trường. Hai người chưa bàn gì tới lễ cưới thì anh em ông Sỹ bỏ chạy vào Nam.
Không hiểu sao đời lại phũ phàng với cô tôi đến thế ? Giá như không có những đổi thay liên tiếp của thời cuộc hẳn đến giờ những người con gái dịu hiền, nhan sắc như cô sẽ hạnh phúc biết bao nhiêu.
Giờ, tôi chỉ còn biết thắp nén hương trầm, cầu chúc cho cô được thanh thản, để gặp lại người mình mong đợi suốt cả cuộc đời ở thế giới bên kia.