Sau 15 năm xây dựng và phát triển, các KCN đã đạt được những thành tựu quan trọng đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hoá của tỉnh.
Hình thành hệ thống các KCN trên cơ sở chiến lược quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; chiến lược quy hoạch ngành, địa phương và vùng lãnh thổ. Các KCN Bắc Ninh được thành lập và phát triển phù hợp với mục tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, quy hoạch ngành, địa phương, quy hoạch vùng, quy hoạch sử dụng đất… được triển khai một cách linh hoạt theo điều kiện, nhu cầu phát triển của từng địa phương. Khẳng định vai trò của các Khu công nghiệp là nền tảng quan trọng để thực hiện mục tiêu “Đến năm 2015, Bắc Ninh cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại” như Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII đề ra.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm hỏi đời sống công nhân Công ty Samsung Electronic Việt
Ảnh: Đào Khoa
Các Khu công nghiệp đã huy động được lượng vốn đầu tư lớn của các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá của tỉnh. Các dự án đầu tư đến từ 26 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới và đầu tư đa dạng về ngành nghề, quy mô, trình độ công nghệ, tập trung vào các lĩnh vực điện, điện tử, viễn thông, cơ khí chính xác của các tập đoàn đa quốc gia: Canon, Samsung, Nokia, Pepsico, Foxcon, Ariston Thermo… tạo hình ảnh riêng biệt cho các KCN Bắc Ninh, góp phần khẳng định vị thế của Việt Nam trong bản đồ địa kinh tế khu vực và thế giới. Đồng thời là cơ sở để xác lập ngành công nghiệp mũi nhọn của tỉnh là ngành công nghiệp điện tử.
Thiết lập mô hình KCN gắn với đô thị nhằm phát huy lợi thế, hình thành chuỗi không gian kinh tế, đô thị kết nối với vùng kinh tế trọng điểm bắc Bộ và vùng thủ đô Hà Nội. Với một hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, có giá trị lâu dài, góp phần hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng trong toàn tỉnh, các KCN có đóng góp lớn vào tăng trưởng ngành sản xuất công nghiệp, nâng cao giá trị xuất khẩu và sức cạnh tranh của nền kinh tế, tạo sự lan tỏa mạnh mẽ nâng cao đời sống vật chất, tạo việc làm và dịch vụ đặc biệt là các vùng lân cận các KCN.
Năm 2006 các KCN mới có 87 doanh nghiệp đi vào hoạt động giá trị sản xuất đạt 3.403 tỷ đồng, chiếm 18,9% tổng giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh. Đến năm 2012 chiếm 85,36 tổng giá trị sản xuất công nghiệp, 6 tháng đầu năm nay đạt gần 220 nghìn tỷ đồng, tăng 73% so cùng kỳ. Đặc biệt giá trị sản xuất của doanh nghiệp công nghệ cao có sự tăng trưởng nhanh, nếu như năm 2010 chiếm tỷ trọng 22,71%, thì đến 2012 chiếm 57% giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh. Kim ngạch xuất khẩu tăng từ 108 triệu (năm 2006) lên 13,62 tỷ USD năm 2012, chiếm 99,3% kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh.6 tháng đầu năm nay đạt 12,2 tỷ USD, tăng 121% so cùng kỳ. Tỷ lệ nộp ngân sách liên tục tăng qua các năm từ 11,64% (năm 2006) lên 43,89% năm (2012), 6 tháng đầu năm ước đạt 2.095 tỷ đồng, tăng 159% so cùng kỳ.
Các Khu công nghiệp đã góp phần quan trọng giải quyết việc làm, đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao thu nhập, đời sống và trình độ người lao động. Hiện các KCN đã giải quyết việc làm cho gần 130 nghìn lao động, trong đó hơn 45,1 nghìn lao động địa phương chiếm 34%, góp phần hình thành đội ngũ lao động của nền công nghiệp hiện đại. Đã có 7 dự án nhà ở công nhân KCN được khởi công xây dựng, giải quyết chỗ ở cho khoảng 30 nghìn lao động.
|
Ban quản lý các KCN thực hiện tốt cơ chế “một cửa” tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp KCN phát triển nhanh, hiệu quả. Các thủ tục hành chính được giải quyết nhanh chóng, tập trung, tiết kiệm thời gian, chi phí và tạo lòng tin cho nhà đầu tư, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh cho tỉnh. Với những thành tựu nổi bật có thể khẳng định các KCN là nhân tố quan trọng đóng góp lớn vào quá trình phát triển kinh tế- xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh theo hướng công nghiệp hiện đại.
Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng và phát triển, KCN là mô hình mang tính đặc thù, vừa triển khai, vừa điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực hiện theo từng giai đoạn, các KCN Bắc Ninh vẫn còn bộc lộ những hạn chế cần tiếp tục nghiên cứu, khắc phục trong thời gian tới như: Chất lượng công tác quy hoạch KCN và triển khai thực hiện quy hoạch đã được phê duyệt chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển, chưa tính tới yếu tố liên kết ngành và vùng; chưa có kế hoạch thực hiện quy hoạch với các mục tiêu và phân kỳ hợp lý dựa trên khả năng thu hút đầu tư thực tế của từng khu, chưa tận dụng được tiềm năng phát triển của địa phương. Hàm lượng công nghệ, tính phù hợp về ngành nghề trong cơ cấu đầu tư chưa cao.
Các chủ đầu tư KCN chưa thực sự chú trọng tới cơ cấu ngành nghề, công nghệ, môi trường… thiếu thông tin định lượng đánh giá trình độ công nghệ của các dự án đầu tư. Công tác bảo vệ môi trường vẫn còn bất cập. Chủ doanh nghiệp vẫn đặt lợi ích kinh tế lên trên trách nhiệm bảo vệ môi trường. Công tác kiểm tra, giám sát chưa thật chặt chẽ. Công tác đền bù giải phóng mặt bằng, xây dựng kết cấu hạ tầng còn gặp nhiều khó khăn vướng mắc. Đời sống công nhân trong KCN vẫn còn khó khăn. Thu nhập thực tế của người lao động chưa đáp ứng được nhu cầu cơ bản của cuộc sống. Công nghiệp hỗ trợ phát triển chậm, tỷ lệ nội địa hóa thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu hình thành chuỗi giá trị.
Xác định rõ những tồn tại, với phương châm phát triển các KCN bền vững, Ban quản lý các KCN tiếp tục thực hiện quan điểm chỉ đạo của tỉnh: Phát triển KCN phải tuân thủ quy hoạch được duyệt, thường xuyên rà soát điều chỉnh quy hoạch bảo đảm xác định được định hướng ưu tiên phát triển một số ngành, lĩnh vực phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, chú trọng đến quy hoạch vùng đồng bằng sông Hồng và vùng thủ đô Hà Nội. Bảo đảm mục tiêu phát triển kinh tế hài hoà với các yếu tố xã hội, môi trường hướng tới phát triển bền vững. Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng KCN gắn chặt với bảo vệ môi trường, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động. Để hiện thực hóa quan điểm đó, trong giai đoạn tới, cần xây dựng và phát triển các KCN theo một số định hướng: Nâng cao chất lượng quy hoạch và thực hiện quy hoạch. Xây dựng, triển khai quy hoạch KCN gắn với thực hiện quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp, quy hoạch đô thị, quy hoạch nhà ở và các quy hoạch ngành.
Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng gắn kết trong và ngoài hàng rào bảo đảm tiện nghi, tiện ích công cộng phục vụ cho KCN. Huy động các nguồn vốn đầu tư xây dựng nhà ở công nhân, đồn công an, trung tâm y tế… Cải thiện chất lượng thu hút đầu tư, ưu tiên ngành nghề xác định là mũi nhọn phát triển (điện, điện tử, viễn thông…); dần hình thành công nghiệp phụ trợ. Kiểm soát chặt chẽ vấn đề môi trường; nâng cao năng lực quản lý và kỹ thuật môi trường; tăng cường giám sát, thanh kiểm tra việc chấp hành pháp luật về môi trường… Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động. Chú trọng cải thiện điều kiện lao động; xây dựng đội ngũ lao động có tác phong công nghiệp, có trình độ, kỹ năng, kỷ luật lao động đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Hướng vào mục tiêu xây dựng và phát triển các KCN đến năm 2015, Ban quản lý các KCN Bắc Ninh nỗ lực phấn đấu, tìm các giải pháp tạo ra bước phát triển đột phá mới, tạo chuyển biến mạnh về chất lượng phát triển, tạo nhiều việc làm, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất tinh thần của công nhân lao động, tạo nền tảng đẩy nhanh CNH, HĐH và phát triển kinh tế trí thức, phấn đấu trở thành tỉnh công nghiệp trước năm 2015.