Nhà thơ Hoàng Cầm và nhà văn Kim Lân, năm 2003.
Ảnh: Nguyễn Đình Toán
Kim Lân sinh ra trong gia đình có hoàn cảnh khó khăn, chỉ được học hết bậc tiểu học rồi phải đi làm. Ông bắt đầu viết truyện ngắn từ năm 1941 (21 tuổi). Tác phẩm của ông được đăng trên các báo Tiểu thuyết thứ bảy và Trung Bắc chủ nhật. Các truyện ngắn Vợ nhặt (1), Đứa con người vợ lẽ, Đứa con người cô đầu, Cô Vịa,... mang tính chất tự truyện, phản ánh hiện thực tiêu điều, ảm đạm của nông thôn Việt Nam và cuộc sống lam lũ, vất vả của người nông dân trong chế độ thuộc địa nửa phong kiến. Ông được dư luận chú ý nhiều qua các truyện: Đôi chim thành, Con mã mái, Chó săn… tái hiện sinh hoạt văn hóa phong phú ở thôn quê, ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám, tuy nghèo khổ nhưng sống nghĩa tình, nhân ái, tài hoa.
Năm 1941, phong trào kịch nói, kịch thơ ở Hà Nội rất sôi nổi, với những cây bút danh tiếng như: Thế Lữ, Vũ Hoàng Chương, Hoàng Công Khanh…Hoàng Cầm cũng đã sáng tác được mấy vở kịch. Một hôm đi xem “Bóng giai nhân” của Nguyễn Bính và Yến Lan ở Nhà hát lớn. Tình cờ, Hoàng Cầm ngồi cạnh một người có vẻ nhà quê, vừa xem, anh vừa trao đổi với người ngồi bên những nhận xét sắc sảo về sân khấu. Là dân làm kịch nên ông rất thích. Ông chủ động làm quen và sau đó chơi thân với nhau. Hai ông rất quý mến nhau vì hai anh em có cùng đam mê viết văn và diễn kịch. Nhà Kim Lân ở Phù Lưu, nơi Hoàng Cầm có người bạn thân là Hoàng Tích Linh. Vì thế, mặc dù Hoàng Cầm học ở Bắc Giang nhưng rất hay về Phù Lưu chơi. Các ông cùng nhau tập diễn kịch. Hoàng Cầm rất phục cái tài của Kim Lân, coi Kim Lân là “bậc kỳ tài” trên sân khấu, nhất là trong hài kịch. Có lần diễn vở “Cái tủ chè” ở Bắc Giang. Vở kịch kể chuyện một ông nhà giàu rất mê tủ chè. Nên khi kén rể cho đứa con gái xinh đẹp, ông cũng đòi lễ vật là cái tủ chè. Rồi có hai chàng trai đến cầu hôn: Kim Lân đóng anh chàng nhà quê Cả Khiết, ông Trần Hoạt đóng vai Ký Phong… Chuyện chỉ có thế nhưng họ diễn hay đến nỗi người dân Bắc Giang cười nghiêng ngả, làm đổ cả rạp. Hoàng Cầm từng nằm chuyện trò với Kim Lân, quen thuộc từng cử chỉ của ông cũng phải ôm bụng cười lăn ra.
Ngày 28-11-1946, vở kịch thơ “Kiều Loan” của Hoàng Cầm có buổi diễn duy nhất ở Nhà hát lớn. Kim Lân đóng vai ông già, một nhà Nho yêu nước, có khí phách, lên án Gia Long, phê phán vua quan… Kim Lân đã thể hiện sâu sắc nỗi uất hận giằng xé của người dân trước thế cuộc đảo điên. Từ trong cánh gà lảo đảo đi ra, quay lưng lại khán giả, chưa nói một lời thoại nào, nhưng dáng điệu lẻo khoẻo và những cử chỉ bất cần của ông khiến người xem vỗ tay không ngớt. Khán giả kịch hồi đó tinh lắm. Sự sáng tạo của Kim Lân diễn tả rất tinh tế tâm trạng của một ông già trí thức, ngán ngẩm và quay lưng hoàn toàn với cuộc đời. Diễn hết màn hai, mời khán giả giải lao, một ông già ngồi ở hàng đầu đứng lên, nói oang oang giọng liên khu V: “Đấy các bạn xem! Người viết kịch như thế này! Người diễn kịch như thế này! Mà nước Việt
Hoàng Cầm có lần tâm sự: “Trong đám nhà văn, ít ai có được duyên kể chuyện như Kim Lân. Ông rất thông minh và có trí nhớ tuyệt vời, lại còn có duyên kể chuyện nữa. Ông kể rất hóm hỉnh, từ chuyện sử Tàu, sử ta đến những thú chơi đồng quê như chọi gà, chọi chim… Bạn bè cùng lứa rất thích nghe ông tán chuyện. Ở đâu có ông, ở đó có chuyện để nghe và có cái để cười. Trong đám nhà văn, tôi thấy ít ai có được cái tài đó, chỉ cần nghe ông kể chuyện, cũng có thể viết được cả cuốn tiểu thuyết. Vì ông dí dỏm, mắt mũi tay chân diễn đạt sống động lắm”.
Theo Hoàng Cầm: Chính nhờ Kim Lân đưa ông vào bộ đội, nên mới có “Bên kia sông Đuống” (3). Ông cho biết: Trước khi đi theo kháng chiến ông chưa từng hoạt động trong tổ, nhóm văn nghệ cách mạng nào. Tháng 8 năm 1947, hai vợ chồng chỉ còn vài đồng bạc, đang lang thang gần Nhã Nam, thì sực nhớ khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, lúc chia tay, Kim Lân có bảo sẽ lên Cao Thượng. Hai vợ chồng ông đến Cao Thượng tìm gặp được Kim Lân, được Kim Lân giới thiệu, gia nhập Vệ quốc quân ở Chiến khu 12. Từ đó ông tham gia viết ca dao, vè kháng chiến v.v…, Kim Lân thường gợi ý cho ông viết về chủ đề cổ vũ quân và dân tích cực tham gia kháng chiến, in hàng nghìn bản gửi đến nhân dân, bộ đội. Tháng 4 năm 1948, ông viết xong “Bên kia sông Đuống”.
Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, Kim Lân viết truyện “Người gác máy bay trên núi Cối Kê”, đưa Hoàng Cầm đọc, nhưng không gửi đi in vì ông thấy truyện chưa hấp dẫn, ba tháng sau Kim Lân đưa cho vài người bạn trong BCH Hội nhà văn xem, rồi ông tuyên bố: Tôi là nhà văn, hoà bình rồi nhưng tôi không còn khả năng viết thêm gì. Mong anh em thông cảm! Có lẽ từ nay, tôi không viết được nữa! Nhiều lần Hoàng Cầm động viên, nhưng Kim Lân vẫn khăng khăng bảo: - Tôi thấy mình đã đuối lắm ! không viết được, nhạt nhẽo, không đúng ý mình thì không viết là hay nhất. Chứ cứ lảm nhảm thì sẽ có tội!
Mấy chục năm ròng, nhà thơ Hoàng Cầm bị hoạn nạn, nhiều bạn bè không dám đi lại, giao tiếp nhưng Hoàng Cầm và Kim Lân vẫn biết thông tin về nhau, mặc dù “gió to, bão lớn”, Kim Lân vẫn đi lại bình thường. Hai lần Hoàng Cầm phải nằm viện Việt Đức để mổ, Kim Lân lặng lẽ đến thăm. Năm 1988, trong cao trào đổi mới, Hoàng Cầm và một số nhà văn được khôi phục tư cách hội viên Hội Nhà văn, được quyền công bố đăng tải tác phẩm, Kim Lân mừng lắm, thỉnh thoảng mời Hoàng Cầm và bạn văn đến nhà tổ chức ăn uống. Hoàng Cầm bị ngã, Kim Lân đến chơi, nói đùa: “Ui giời! Thôi ngã đi cũng phải! Ngã là cái hay! Nằm một chỗ chả phải đi nữa! …”.
Kim Lân và Hoàng Cầm, hai cây đại thụ của nền văn học hiện đại Việt Nam, hai con người được nuôi dưỡng bằng “dòng máu của nghệ thuật quan họ”(4) đều đã nhẹ bước vào cõi hư không, để lại những di sản tinh thần độc đáo, tài hoa, những “biệt đãi” mà số phận đã trao cho văn hóa Kinh Bắc, cho văn đàn Việt Nam. Những giá trị của văn học nghệ thuật hai ông để lại cho đời và tình bạn thủy chung, son sắt của một văn nhân-một thi nhân đã và sẽ góp phần bồi đắp làm rạng rỡ cốt cách và tâm hồn người Bắc Ninh!
(1)-Truyện ngắn Vợ nhặt và Làng của Kim Lân được in trong sách giáo khoa.
(2)- Phan Khôi là học giả tên tuổi, nhà thơ, nhà văn; người mở đầu và cổ vũ cho phong trào Thơ mới.
(3)- “Bên kia sông Đuống”, in trong sách giáo khoa văn, lớp 12. Giải thưởng Nhà nước, 2007.
(4)-Cụm từ Hoàng Cầm dùng trong “Hoàng Cầm, tác phẩm, Quyển một-Thơ”