khach san bac ninh

Bac Ninh Tin tuc tong hop san pham lang nghe doanh nghiep Bac Ninh
Thứ sáu, 06/09/2013 - 14:22

Một số điểm tương đồng và khác biệt giữa dân ca Quan họ và hát Chầu văn

Dân ca quan họ và hát chầu văn đều là loại hình dân ca đã xuất hiện từ lâu ở vùng Kinh Bắc xưa. Do chủ thể sáng tạo đều là người lao động sinh sống ở nông thôn; môi trường diễn xướng là các làng quê; người thưởng thức là những người gần gũi, gắn bó hàng ngày với chủ thể diễn xướng,… nên giữa hát chầu văn và dân ca quan họ có một số điểm tương đồng nhưng cũng có nhiều điểm khác biệt. Trong bài này chúng tôi có ý định tìm hiểu về những điểm tương đồng và khác biệt giữa hát chầu văn với dân ca quan họ để từ đó làm rõ những nét độc đáo của chúng, nhằm góp phần tạo cơ sở xây dựng ý thức bảo tồn di sản văn hóa quí hiếm này ở nước ta.

1. Một số điểm tương đồng giữa dân ca quan họ và hát chầu văn

1.1. Dân ca quan họ và hát chầu văn đều là loại hình dân ca do quần chúng nhân dân lao động sáng tạo và diễn xướng

Cũng như hò sông Mã ở Thanh Hóa, hát xoan ở Phú Thọ, hát phường vải ở Nghệ Tĩnh,… các bài hát và điệu hát chầu văn và dân ca quan họ ở vùng Kinh Bắc đều là do những người lao động sáng tạo ra và diễn xướng. Khái niệm “những người lao động” mà chúng tôi dùng ở đây bao gồm cả những nhà nho có cuộc sống gắn bó với nông dân, nông thôn, nông nghiệp. Những người sáng tác phần lời của một số bài hát của hai loại hình dân ca này cũng có thể là một số quan chức, những trí thức lớn (như Dương Khuê, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến,…), nhưng họ chỉ là người sáng tác phần lời, còn thể hiện phần lời để cho cộng đồng thưởng thức (trong đó bao gồm cả người biểu diễn) thì đều là người lao động.

1.2. Dân ca quan họ và hát chầu văn đều là loại hình dân ca khởi đầu được hát trong các cơ sở thờ tự tôn giáo tín ngưỡng

Tìm hiểu một số loại hình dân ca của một số dân tộc trên thế giới, chúng tôi thấy rằng hầu hết khởi nguyên của một số dân ca của một số dân tộc đều là những bài hát phục vụ cho tín ngưỡng thờ thần (chẳng hạn như ở Ấn Độ, ở Căm pu chia, ở một số dân tộc thiểu số ở Vân Nam Trung Quốc,…). Hát chầu văn ở Việt Nam nói chung, và dân ca quan họ ở Bắc Ninh nói riêng, đầu tiên là phục vụ nhu cầu tín ngưỡng thờ cúng tại các cơ sở thờ tự tín ngưỡng, tôn giáo. Đó là các cơ sở thờ mẫu, các đền thờ tứ phủ; các ngôi chùa thờ Phật,…

1.3. Dân ca quan họ và hát chầu văn đều có các chặng trong cuộc hát. Nếu một canh hát quan họ có các chặng: mời nước, mời trầu, giã bạn,… thì hát chầu văn cũng có các chặng: mời thánh nhập, kể sự tích và công đức của thánh mẫu, xin thánh mẫu phù hộ và đưa tiễn.

1.4. Ca từ của dân ca quan họ và hát chầu văn phần lớn là thể thơ lục bát. Chẳng hạn như các bài hát quan họ “Hôm nay lan huệ sánh bầy” theo điệu “La rằng”:

Hôm nay lan huệ sánh bầy,/Đào đông xin hỏi liễu tây mấy nhời/Lạ lùng ướm hỏi nhau chơi,/Nữa mai cá nước, chim trời gặp nhau.

Ca từ của nhiều bài hát chầu văn cũng là thơ lục bát. Chẳng hạn bài “Con đi cầu lộc cầu tài”

- Con đi cầu lộc cầu tài/Cầu con cầu của gái trai đẹp lòng/Gia trung nước thuận một dòng/Thuyền xuôi một bến vợ chồng ấm êm/Độ cho cầu được ước nên/Đắc tài sai lộc ấm êm cửa nhà/Lộc gần cho chí lộc xa/Lộc tài lộc thọ lộc đà yên vui.

Và nếu trong ca từ của một số bài quan họ có sử dụng lối biến thể của thể thơ lục bát, chẳng hạn như bài:

Ai ơi nay có nhớ/Người ơi nay có nhớ đến chúng em chăng/Ai ơi nay có thấu/Người ơi nay có thấu đến chúng em chăng!

Thì trong ca từ của một số bài hát chầu văn cũng sử dụng thể thơ song thất lục bát, chẳng hạn như bài:

-Gió đông phong hây hây xạ nức/Bộ tiên nàng chầu chực hôm mai/Dập dìu nơi chốn trang đài/Chính cung Mẫu ngự trong ngoài sửa sang.

1.5. Nhiều nghệ nhân quan họ và nghệ nhân hát chầu văn yêu nghề có ý thức truyền nghề cho thế hệ sau. Tiêu biểu là nghệ nhân Nguyễn Thừa Kế (94 tuổi ở xã Nội Duệ, huyện Tiên Du, nghệ sĩ ưu tú Tạ Thị Hình ở phường Võ Cường, các nghệ nhân ở thôn Viêm Xá, xã Hòa Long, TP Bắc Ninh,…

2. Một số điểm khác biệt dân ca quan họ và hát chầu văn

2.1. Nếu dân ca quan họ thường được hát ở chùa và các môi trường văn hóa khác nhau thì hát chầu văn thường hát ở đền miếu. Tìm hiểu truyền thống hát quan họ ở các làng quan họ cổ, chúng tôi thấy, ngoài hát quan họ trong chùa, các nghệ nhân còn hát ở đình, ở tư gia, trên đồi núi, trên sông nước,… đây là môi trường cộng cảm của nhiều thế hệ người nông dân. Vì ca từ của các làn điệu dân ca quan họ có nội dung chủ yếu là thể hiện tình cảm nam nữ trong không gian văn hóa phù hợp nên ở bất kỳ không gian nào thích hợp cho các đôi trai gái thể hiện được tình cảm của mình là ở đấy có hát quan họ. Còn hát chầu văn, do mục đích là để thể hiện sự ngưỡng mộ của người hát đối với thánh mẫu, đối với đấng thiêng liêng nên hát chầu văn chỉ có thể được hát trong đền miếu (cũng có trường hợp được hát trong khuôn viên chùa, nhưng chỉ là trong nhà mẫu).

 2.2. Về trang phục, phong cách biểu diễn và âm nhạc: nếu người hát quan họ có trang phục được sử dụng trong lễ hội truyền thống, tức là nam thì áo lương khăn xếp, cầm ô lục soạn, đi giày chí long; nữ là chít khăn đen mỏ quạ, nón thúng quai thao, áo ba tầm, thắt bao tượng với màu sắc trang nhã, có giắt bên mình dây xà tích,… thì các các bà các cô hát chầu văn thường ăn mặc với màu sắc sặc sỡ.

Trong quá trình hát, nếu nghệ nhân quan họ ngồi trên chiếu khi hát tại tư gia hay trong đình hoặc đứng thành từng nhóm trên đồi cây, trên sân chùa, hoặc ngồi hát trên thuyền,… thì người hát chầu văn thường vừa hát vừa nhảy múa với nhịp điệu, tiết tấu nhanh, thôi thúc,…

Trong các canh hát quan họ của các nghệ nhân quan họ thường không có nhạc đệm, còn trong các cuộc hát chầu văn thường có các cung văn đệm đàn,…

2.3. Nếu hát chầu văn thường gắn liền với việc hầu đồng và có khán giả là những người tham gia cuộc hầu đồng, thì các canh hát quan họ không có hiện tượng đó. Trong một canh hát quan họ, những người tham gia canh hát, đồng thời cũng là những khán giả, những người sáng tác, phẩm bình. Tình tiết này được thể hiện ở tất cả các chặng và ở các thể loại hát đôi, hát đối, hát theo nhóm trên đồi cây, trên thuyền,…

2.4. Hát quan họ là một bộ phận của sinh hoạt quan họ. Ở đó có tục kết bạn giữa trai làng này với gái làng khác và ngược lại; có tục kết chạ giữa các làng với nhau, vì vậy mối thâm giao giữa các làng quan họ với nhau là bền chặt và lâu dài. Còn hát chầu văn, do đặc điểm của nó, chưa thấy có phong tục này.

2.5. Do chủ đề của hầu hết các lời ca quan họ diễn tả các tình huống, các hoàn cảnh khác nhau và các cung bậc tình cảm khác nhau của tình yêu nam nữ nên nó có rất nhiều làn điệu. Theo số liệu của cố nhạc sĩ Hồng Thao công bố trong bài “Những làn điệu quan họ khác nhau” đăng trong tạp chí Sân khấu số 10 năm 1989 thì quan họ có 174 làn điệu, còn theo sách “Dân ca quan họ- lời ca và bình giải” do Trung tâm Văn hóa quan họ xuất bản năm 2001 thì có 213 giọng quan họ. Mặc dù tiêu chí thống kê có khác nhau dẫn đến số liệu khác nhau, nhưng qua 2 số liệu trên đây, chúng ta cũng biết rằng số làn điệu của quan họ là tương đối lớn. Còn các bài hát chầu văn chủ yếu lại có chủ đề là ca ngợi công đức của thánh và cầu xin thánh mẫu phù hộ, ca ngợi cảnh đẹp nơi thánh mẫu ngự,… nên các thể loại của hát chầu văn thường chỉ tập trung vào các chủ đề đó. Theo cách phân loại của các nhà chuyên môn thì hát chầu văn có 14 làn điệu chính, gồm: bỉ, miễu, thống, phú bình, phú chênh, phú nói, phú rầu, đưa thơ, vãn, dọc, cờn, hãm, dồn, xá. Ngoài ra, nghệ nhân hát chầu văn còn sử dụng một số làn điệu của dân ca Huế, dân ca quan họ,… So sánh số liệu giữa hát quan họ với hát chầu văn, chúng ta thấy hát chầu văn có số làn điệu tập trung hơn.

2.6. Trong ca từ của dân ca quan họ đôi khi có nhắc đến một số vật dụng, sản vật, việc làm cụ thể của người nông dân và địa danh cụ thể, chẳng hạn như: con lươn, con ếch, đồng hồ, cái cày, rau, đi chợ, và các địa danh như chợ Niềm, chợ Nhớn… Còn trong các bài hát chầu văn thì ít thấy hiện tượng này. Điều này phản ánh một thực tế là phạm vi phản ánh hiện thực xã hội của hát quan họ rộng hơn hát chầu văn.

2.7. Ca từ của hát quan họ thường sử dụng rất nhiều câu chữ trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, còn ca từ trong các bài hát chầu văn ít thấy sử dụng câu chữ của tác phẩm bất hủ này.

2.8. Nếu hát quan họ thường là hát giao duyên, hát đôi, hát đối ở trong nhà, ngoài sân đình, sân chùa, trên thuyền, trên đồi cây,… còn nghệ nhân hát chầu văn thì không hát ở những không gian đó. Tuy nhiên, khi thăng hoa, nghệ nhân hát chầu văn như có trạng thái của người lên đồng và hòa đồng vào không gian thiêng đó. Khi đó, ranh giới giữa người diễn xướng với những người xung quanh không còn nữa, nhưng hết buổi hát thì trạng thái tinh thần đó không còn nữa. Khi đó, tình cảm, tinh thần của họ lại trở về trạng thái bình thường.

Còn trạng thái thăng hoa của người hát quan họ chỉ có giới hạn. Dù trong không gian ca hát nào, họ cũng giữ được sự chừng mực của tình cảm. Vì hát quan họ chỉ là một phần của sinh hoạt quan họ và sinh hoạt quan họ là một phần của cuộc sống hàng ngày, nên hát quan họ và sinh hoạt quan họ đồng hành suốt đời với nghệ nhân quan họ.

2.9. Đối với hát chầu văn, tính diễn xướng tương đối rõ. Đặc điểm này thể hiện ở chỗ sự hóa trang, trang phục khác với cuộc sống đời thường của nghệ nhân. Còn nghệ nhân hát quan họ, dường như không cần hóa trang gì cả, trang phục của họ cũng giống như trang phục đi hội thôi.

3. Sự tương tác giữa hát quan họ với hát chầu văn

Từ một số điểm tương đồng và khác biệt giữa hát quan họ với hát chầu văn trên đây, chúng tôi thấy chúng có sự tương tác với nhau. Điều này thể hiện ở mấy điểm sau:

Một là, các chủ đề, các làn điệu, cách sử dụng âm nhạc,… của hát chầu văn và hát quan họ có thể bổ sung, hỗ trợ cho nhau để mỗi thể loại ngày càng phong phú, đáp ứng nhu cầu thưởng thức ngày càng cao của công chúng.

Hai là, mỗi thể loại, đứng trên vị trí của mình, tìm hiểu thể loại khác để coi đó như là cơ sở so sánh để tìm ra điểm độc đáo của mình và duy trì, bảo tồn sự độc đáo đó.

Ba là, trong các loại hình dân ca, khi mới xuất hiện, chúng đều có nguồn gốc chung, nhưng trong quá trình phát triển của tư tưởng, và nhu cầu tinh tế của sự hưởng thụ văn hóa của mình, con người mới sáng tạo ra nhiều loại hình, nhiều làn điệu dân ca mang nét riêng của vùng miền, của địa phương. Điều này tạo nên tính đa dạng của văn hóa dân tộc và tạo nên thế mạnh của mỗi thể loại dân ca. Trong mối quan hệ giữa dân ca quan họ với hát chầu văn cũng không nằm ngoài thực tế đó.

Tóm lại, trên cơ sở tìm ra sự tương đồng và khác biệt giữa dân ca quan họ và hát chầu văn, chúng tôi muốn khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị văn hóa đặc sắc của hai loại hình dân ca này ở nước ta nói chung và ở Bắc Ninh nói riêng, từ đó góp phần kêu gọi mọi người nâng cao hơn nữa ý thức giữ gìn di sản văn hóa dân tộc. Nếu nhằm bảo vệ di sản văn hóa vật thể, điều chủ yếu là kinh phí, thì bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể, vấn đề trước tiên lại là ý thức tôn trọng di sản do ông cha để lại và sự hiểu biết giá trị của di sản đó. Muốn thực hiện tốt điều này, việc sưu tầm, khảo sát, quảng bá, tôn vinh những giá trị của di sản văn hóa dân tộc trong đó có hát chầu văn là công việc cần được làm ngay, cũng như chúng ta đã làm đối với dân ca quan họ, ca trù,...

Nguyễn Quang Khải
Top